Nó cũng không nằm ngoài cái danh từ Phật Giáo của nước mẹ ấn Độ. Nó còn là khái niệm của ý nghĩa đặc thù, cách biểu thị đặc thù của loại hình phật giáo. Nhưng nếu nhắc đến「Phật Giáo Đài Loan」「Phật Giáo Hồng Kông」hoặc「Phật Giáo Anh Quốc」「Phật Giáo Pháp Quốc」đều có thể chỉ là thuần túy về nhân tố điạ lý mà nói. Khài niệm thứ hai là: Dựa trên quan điểm Triết Học xuất thân của mỗi cá nhân, lấy sự quan sát của chúng ta đối với giới Triết Học Đài Loan, thì có thể nói: Không có cái gọi là Triết Học Đài Loan. Bởi Vì, tuy có một vài người từ sự nghiên cứu , giảng dạy và viết lách về Triết Học, cũng có một vài đoàn thể triết học. Nhưng vì bị hạn chế một số vấn đề như: ngôn ngữ, thời gian…( đương nhiên, cũng có một vài người quan sát không đủ sâu, không đủ xác thực) Bởi vậy, chúng ta nói không có cái gọi là「Triết Học Đài Loan」là như thế. Triết Học của Đài Loan chỉ là một vài loại tư tưởng bên ngoài mà truyền nhập vào, còn về ý nghĩa chân chánh của「Triết Học Đài Loan」thì chưa phát sanh.
Như vậy, có「Phật Giáo Đài Loan」không? Nếu lấy từ cái khái niệm thứ hai lại đối chiếu mà nói, có thể khẳng định là có. Bởi vì, từ sự ảnh hưởng của Ngài Ấn Thuận pháp Sư, Ngài đã thành lập nên bối cảnh của cộng đồng Phật Giáo Đài Loan trước đây. Từ việc so sánh và đối chiếu với khái niệm thứ nhất, cũng tức là nói lên vấn đề tính chủ thể của sự sáng tạo Phật Giáo Đài Loan như thế nào? Việc này ở phần kết luận sẽ nói thêm.
II. Từ việc khảo xác về lịch sử của Phật Giáo Đài Loan, nên xem lại bản chất của Phật giáo Đài Loan trước đây.
Dựa vào những cách thống trị khác nhau, lịch sử của Đài Loan có thể phân thành thời kỳ Nhà Minh, Nhà Thanh, Nhật Bản chiếm đóng, Đệ Nhị Thế Chiến và thời kỳ Chính Phủ Dân Quốc. Trước khi Nhật Bản thống trị Đài Loan, trên cơ bản người Đài Loan là do người Mân và người Áo(người Mân thuộc Thành Phố Phúc Châu Tỉnh Phúc Kiến, còn người Áo sống ở một thung lũng nhỏ thuộc Thành Phố Chiết Giang cũng Tỉnh Phúc Kiến)của Tỉnh Phúc Kiến Trung Quốc di dân sang mà cấu thành nên xã hội, mà lúc Phật Giáo truyền qua Đài Loan cũng là vào thời đại Nhà Minh và Nhà Thanh.
Nhà sử học Phật Giáo nổi tiếng Lâm Kiết Phú đã từng nói đến「Phật Giáo Minh Thanh」này. Ông cho rằng thời đại của Nhà Minh và Nhà Thanh cũng như cho đến thời Dân Quốc Sau này, lưu truyền vào Đài Loan bằng truyền thống Phật Giáo của Trung Quốc. Phật Giáo đời Tùy Đường và Phật Giáo đời Tống Nguyên đều mang tính cách và nội dung khác nhau. Bởi vậy, nếu cứ mườn tượng vào thói quen đó, lấy thời đại Phật Giáo Đời Nhà Tùy Nhà Đường mang ra lý giải Truyền Thống Phật Giáo của trước đây thì sẽ có nhiều ngộ nhận. Bởi vậy, khi nói đến khái niệm「Phật Giáo Minh Thanh」này, thì cũng chính là nói đến những vấn đề cơ bản của Phật Giáo cận đại Trung Quốc.
Nói về đặc tính và bản chất của Phật Giáo Đời Nhà Minh Nhà Thanh, chúng ta có thể từ Chính Trị, Kinh Tế, Giáo Đoàn, Tông Phái, Giáo Nghĩa, Dân Tục…v.v Hợp tất cả những phương diện này lại mà nghiên cứu và khảo sát. Ở đây chỉ đề xuất để làm sáng tỏ tính đặc trưng của nó, tức là sự ảnh hưởng mạnh mẻ của Phật Giáo Bình Dân qua sự phát triển của giáo nghĩa Phật Giáo. Cái đặc trưng này có thể lấy từ hai trắc nghiệm sau đây lại quan sát. Một là: Nghĩa Học Bất Hưng, cái gọi là 「Nghĩa Học Bất Hưng」chủ yếu là nói về nghiên cứu nghĩa học của thời đại Nhà Minh, Nhà Thanh mà vốn dĩ không có tính sáng tạo. Đại Thể là tổng hợp và khôi phục các loại như:「Tam Giáo Hợp Nhất」「Thiền Tịnh Hợp Nhất」「Giáo Tại Hoa Nghiêm, Hành Tại Tịnh Độ」Thứ hai là:Dân Tục hóa Phật Giáo, phát triển bị trệch đường ray, khiến cho khoảng cách, sự lợi ích hằng ngày của giáo nghĩa và hình thái tín ngưỡng Phật Giáo ngày thêm lớn, Phật Giáo trở thành dân chúng hóa, thế tục hóa, tinh thần và nội dung thì người dân tin một cách rất mơ hồ. Thời kỳ trước khi Nhật Bản chiếm đóng, trên cơ bản Phật Giáo Đài Loan là một loại hình Phật Giáo di dân. Đến thời kỳ Phật Giáo sau khi Nhật Bản chiếm đóng. Tuy Nhật Bản thống trị Đài Loan 50 năm, nhưng Phật Giáo Đài Loan chỉ ảnh hưởng một phần rất nhỏ đối với Phật Giáo Nhật Bản. Dựa vào Tác Phẩm nghiên cứu của Nữ Học Gia Trần Linh Dung「Chính Sách Tôn Giáo Đài Loan Dưới Ách Thống Chế Của Thần Đạo Trong Thời Kỳ Nhật Bản Chiếm Đóng」Nhật Bản mới chiếm đóng Đài Loan năm 1895. Những vị Sư truyền giáo của các Tông Phái Phật Giáo Nhật Bản chỉ chú trọng một việc là lấy Tiền của những người Nhật Bản để phục vụ Hoằng Pháp là chính. Đến năm 1915 ảnh hưởng đến sự kiện của làng sóng Phương Tây truyền vào. Lãnh đạo thực dân bắt đầu chú ý khống chế đến Tôn Giáo bản địa Đài Loan. Giới Phật Giáo Đài Loan cũng cho rằng cần phải dựa vào Phật Giáo Nhật Bản để được bảo hộ về Chính Trị, mà bắt đầu tiếp xúc song phương. Năm 1921 thành lập hội Phật Giáo「Nam Doanh」Nhưng mãi đến năm 1936, do vì phủ tổng đốc thực hiện công tác đập phá hạn chế chùa chiền. Rất nhiều Chùa Am Miếu ở Đài Loan lâm vào khốn đốn trong việc sanh tồn, nên thỉnh cầu Phật Giáo Nhật Bản ra tay giúp đỡ. Có sự trắc trở này nên mới tiếp nhận sự du nhập của Phật Giáo Nhật Bản để được bảo hộ. Lúc này Phật Giáo Nhật Bản mới có cơ hội tiếp nhận được nhiều tín đồ dân chúng Đài Loan. Cho dù như thế, dựa vào kế hoạch của phủ tổng đốc Đài Loan, năm 1941 số lượng tín đồ của các Tông Phái tại Đài Loan với hơn 96.205 người. Trong đó người Trung Quốc và Nhật Bản chiếm đại đa số, còn người Đài Loan chỉ chiếm 28.003 người, mà lúc này đã là thời kỳ của thực dân Nhật Bản thống trị. Do vậy, xem lại sự Hoằng Pháp của Phật Giáo Nhật Bản tại Đài Loan thật là vất vả khó nhọc. Bởi vậy, Nữ Học Giả Trần Linh Dung kết luận rằng: Từ trong đáy lòng và trong tư tưởng của người dân Đài Loan, phần đông vẫn tín ngưỡng và hướng về Tôn Giáo Truyền Thống của họ.
Sự thật, khi Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan, Hội Phật Giáo Nam Phương Trung Quốc vẫn tiếp tục truyền vào Đài Loan, lấy Đài Loan làm gốc để phát triển. Như là vào năm 1912 Ngài Thiền Sư Giác Lực từ Chùa Dũng Tuyền thuộc Phái Cổ Sơn Thành Phố Mân Nam Tỉnh Phúc Kiến Trung Quốc đến Đài Loan khai sơn Chùa Pháp Vân, thành lập nên một hệ thống Phật Giáo rất lớn taị Đài Loan. Mà đối với tinh thần của Phật Giáo Nhật Bản là phải nên hiểu rõ, nhận thức đúng đắng mới có thể chân chánh phát huy sự ảnh hưởng của Phật Giáo Nhật Bản. vào thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng, giới Tăng Lữ Trung Quốc đến Đài Loan rất đông. Sau thời Quang Phục, Chính Phủ Dân Quốc và Giới Tư Tưởng Văn Hóa Đài Loan có khuynh hướng dùng hết tâm lực của mình để khống chế những văn hóa của Nhật Bản đang lưu truyền tại đây, điều này khiến cho sức ảnh hưởng đó đến một vài người chưa hiểu rõ và đã quay trở lại ủng hộ. Bởi vậy, chúng ta có thể nói, những năm đầu Quang Phục đời Nhà Thanh, Phật Giáo Đài Loan trên cơ bản vẫn là Phật Giáo Nam Phương Trung Quốc và cũng là dư âm còn lại của「Phật Giáo Minh Thanh」
Sau năm Quang Phục đời nhà Thanh, tức là năm 1949 về sau, chư tăng Trung Quốc lại đài loan rất nhiều. Và đưới sự khuyến khích của chính phủ, họ đã giữ những chức vụ chủ lực của Phật Giáo Đài Loan. Thời gian Phật Giáo Trung Quốc truyền vào, trên cơ bản vẫn là dân di cư của Phật Giáo Dân Quốc. Phật Giáo Dân Quốc có thể phân làm hai hệ lớn. Thứ nhất là diễn biến của Phật Giáo đời Nhà Minh Nhà Thanh, như có các Ngài ấn Quang Đại Sư, Hư Vân Lão Hòa Thượng, Đế Nhàn Đại Sư, Hoằng Nhất Đại Sư…v.v được xem như là những vị Hoằng Truyền Phật Pháp. Thứ hai là phê bình Phật Giáo Nhà Minh Nhà Thanh. Rồi vận động kiến lập nên Phật Giáo thuần túy, chân chánh, như có các Ngài Thái Hư Đại Sư, Âu Dương Tiệm, Ấn Thuận Đại Sư…v.v đều là các vị đại diện cho phong trào này. Sau năm 1949 Phật Giáo Trung Quốc truyền vào Đài Loan, đồng thời cũng bao gồm cả hai hệ lớn này. Do vậy, Phật Giáo của Đài Loan xưa nay đều là mang hình dáng và sắc thái của Phật Giáo Minh Thanh. Truyền thống của Phật Giáo Đài Loan trước đây cũng vẫn không thoát ra khỏi kết cấu và cách thức của Phật Giáo Minh Thanh này. Bởi vậy hình thái Tông Phái của hai bên không có gì sai khác cho lắm, nên rất dễ dung hợp, dễ hài hòa.
Phái cách tân Phật Giáo phê phán Phật Giáo Minh Thanh, phê phán nội dung , tư tưởng và đối tượng của nó. Đối với Phật Giáo Đài Loan mà nói họ vẫn đầy đủ sáng suốt nhắm vào tính hiện thực, tính tương đối của nó. Sau này, Trung Quốc Đại Lục do vì tiếp nhận nền thống trị của Đảng Cộng Sản, nên trên vấn đề phát triển đã chuyển sang bước ngoặt rất lớn. Diễn biến và phát triển của lịch sử Phật Giáo đến thời Dân Quốc, dù ở Đài Loan Phật Giáo có lúc đi xuống, nhưng sự thịnh suy ấy không sai khác gì cho mấy. Đó cũng là tính đặc thù chung của mỗi quốc gia.
Nói về 3 nhà tư tưởng của Phái Cách Tân, Ngài Âu Dương Tiệm tịch vào thời kháng chiến, Ngài Thái Hư Đại Sư tịch vào năm 1947, đều là sau năm Quang Phục, không có trực tiếp tiếp xúc với Phật Giáo Đài Loan. Còn Ngài ấn Thuận Pháp Sư tuy lại đài loan từ trước, nhưng Ngài mãi đến năm 1952, sau khi lại Đài Loan, chỉ mới trãi qua 12 năm đầu mà ngài đã hoạt động Hoằng Pháp Lợi Sanh thật là sôi nổi và sau này không dừng viết lách, sáng tác. Ngài duy trì rất lâu dài đối với Phật Giáo Đài Loan, đã xuyên suốt trãi qua 40 năm ảnh hưởng và thâm nhập. Đặc biệt là sau năm 1970 kiết tập và xuất bản「Diệu Vân Tập」Bộ sách này không ngừng tái bản liên tục, phần đông các Chùa ở Đài Loan đều có bộ sách này để nghiên cứu, thảo luận và giảng dạy. Sự ảnh hưởng của nó khó mà đánh giá cho hết được. Quan trọng hơn hết là bộ Diệu Vân Tập phân nửa không giống với các loại sách khác của Phật Giáo. Nó không những thể hiện văn chương bút pháp trôi chảy mà còn nghĩa lý rất thâm sâu, sức mạnh của ngoài bút ấy đã mang lại một cảm tình đặc biệt cho Tôn Giáo. Nội dung phong phú làm cho người khác hứng thú khi đọc, mà quan trọng hơn hết là nó đối với hiện thực của phật giáo thật ôn hòa, nhưng cũng là những lời phê bình hết sức sắc bén. Thành thật mà nói, ngài ấn Thuận Pháp Sư tự thuật lại một đời nghiên cứu và hoằng pháp của mình qua tác phẩm『60 Năm Du Lịch Vào Biển Pháp』có nói:「lý giải đến phật pháp và giới Phật Giáo hiện thực khoảng cách và sai khác rất lớn, là do Tôi học Phật đến nay, dẫn đến vấn đề rất quan trọng và mật thiết. Từ hiện thực của thế gian đến lý giải bản chất và sự lưu biến của Phật Pháp, dần dần trở thành phương châm nghiên cứu Phật Pháp của Tôi. Thiết nghĩ chỉ có như thế mới có thể khiến cho Phật Pháp và Phật Giáo Hiện Thực Trung Quốc rõ ràng chính xác từng cự ly」. Nói cách khác, Ngài ấn Thuận Pháp Sư một đời chủ yếu chỉ ý thức một vấn đề là nghiên cứu Phật Học. Ngài định hình một cách rõ ràng, Ngài nhận thức Phật Pháp và hiện thực Phật Giáo, đó cũng tức là bản văn nói về gốc độ khác nhau của「Phật Giáo Minh Thanh」. Sức ảnh hưởng của Ngài không ngừng phổ biến rộng rãi và thâm sâu, thế mới tạo thành thách thức rất lớn đối với Truyền Thống Phật Giáo. Nhưng giới Phật Giáo ở Đài Loan lại sản sanh ra những tư duy cho phật giáo của mình ngày một mới mẻ.
Ngài Ấn Thuận Pháp Sư có dẫn ra một vài cách tư duy về phật giáo của mình. Đại thể mà nói, thì căn cứ vào sự trình bày giải thích Kinh Luận đối với những vấn đề Tín Ngưỡng Phật Giáo thì trái ngược hoàn toàn với sự suy nghĩ. Kết quả trực tiếp thì khiến cho vấn đề thảo luận phổ cập hóa của việc học trở thành một vấn đề cực lớn trong việc học tập giáo nghĩa của Phật Giáo như Giới Định Tuệ Học, quan hệ giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa, Hiển Giáo và Mật Giáo, Chế Độ Tăng Đoàn, Lưu Truyền Lịch Sử Phật Giáo, Phân Hệ Giáo Lý…v.v. ít nhiều cũng có liên quan tới. Có một vài vấn đề còn thâm sâu khúc chiết nên được thảo luận tường tận. Dưới sự hướng dẫn và chỉ đạo của ngài, có rất nhiều vấn đề về Phật Pháp chưa được nghiên cứu sâu sắc về ý nghĩa của nó. Mà đây cũng là một vấn đề để cho số đông phần tử tri thức có thể suy nghĩ và lý giải. Đây cũng là một sự cống hiến rất vĩ đại của Ngài Ấn Thuận Pháp Sư, cũng tức là khiến cho việc học Giáo Pháp được phổ cập rộng rãi. Xét về mặt tư tưởng của truyền thống Phật Giáo Minh Thanh thì tương đối không được phong phú cho lắm. Đương nhiên, do vì Ngài ấn Thuận Pháp Sư đối với Phật Giáo có một phương pháp đặc thù trở thành thể thống riêng. Ngài đối với Phật Pháp nghiên cứu rất tâm đắc. Bởi vì sự phổ biến rất có ảnh hưởng, địa vị được tôn sùng rất cao, mọi người đều kính ngưỡng. Đây cũng khiến cho nội dung tư tưởng về nền Phật Học của Ngài ấn Thuận Pháp Sư trở thành quan điểm cơ bản của giới tư tưởng Phật Giáo Đài Loan.
III. Những khó khăn của phật giáo Đài Loan dưới sự ảnh hưởng tư tưởng của ngài ấn thuận pháp sư.
Vậy chúng ta cũng cần chỉ ra những vấn đề tồn tại bên trong, trong cách tư duy về Phật Giáo của Ngài Ấn Thuận Pháp Sư. Những vấn đề nội tại này, có thể gộp lại làm mấy điểm dưới đây:
1. Ở phương diện đi sâu vào con đường cứu cánh phật giáo, hoàn toàn dựa vào những sách vở sáng tác đối với sự chọn lọc nghĩa lý Phật Giáo. Nhưng cách thức của sự chon lọc này cũng rất đầy đủ. Đi vào con đường này khiến cho tư tưởng của Ngài Ấn Thuận và mục đích cứu cánh của Phật Giáo đều đạt được Giải Thoát Niết Bàn. Trước sau có một cái khó là vuợt qua sự ngăn cách về tư tưởng, nghiên cứu nghĩa học một cách thuần túy và đầy đủ. Kết quả trực tiếp chỉ có thể thầnh tựu về sự nghiệp học thuật, mà chẳng phải là mục đích cứu cánh hiện thực của Phật Giáo. Chịu ảnh hưởng nơi Ngài Ấn Thuận Pháp Sư là một bộ phận đi theo Ngài. Trong quá trình nghiên cứu và thuyết giảng, nền Phật Học đã được truyền vào rất nhiệt tình bởi một Tôn Giáo. Đây sẽ là nguyên nhân ban đầu, mãi đến sau này các học giả lấy việc làm này làm điều vinh hạnh. Không thể nói là kết quả đến với con đường này một cách tự nhiên được.
2. Do vì xuất phát từ sự nghiên cứu Phật Học của Ngài Ấn Thuận Pháp Sư, đối với Ngài cái gọi là「Hiện Thực Phật Giáo」 rất ít nhận được sự đồng cảm. Bởi vậy, thành quả nghiên cứu của Ngài đối với Phật Giáo Truyền Thống Minh Thanh, thật tình mà nói tương đối đầy đủ sức hủy hoại mà lại mất đi công năng để thành tựu. Điều này khiến cho tư tưởng Phật Giáo Truyền Thống của Ngài Ấn Thuận Pháp Sư đứng trước những khó khăn, vì những ranh giới cần phải vượt qua. Chúng ta biết, những người kiên trì giữ gìn Phật Giáo Truyền Thống, nhưng đối với những Trước Tác của Ngài Ấn Thuận cũng cự tuyệt bác bỏ. Thậm chí có một vài trường hợp cấm Tín Đồ đọc những Trước Tác của Ngài. Do vậy có thể thấy, những người này họ cảm thấy tư tưởng của Ngài Ấn Thuận đối với họ là một sự đe dọa rất lớn.
Cho dù Phật Giáo Truyền Thống có những khuyết điểm, nhưng cuối cùng là không phải không có chổ đứng. Nhất là Thiền Tông và Tịnh Độ Tông. Hai hệ này chủ yếu lấy phương thức tu hành của Phật Giáo Trung Quốc dưới thời nhà Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Trên thật tế vẫn đào tạo ra những bậc tu hành cực kỳ đức hạnh.
Việc học tập nghĩa lý của Phật Giáo, nếu không thể có sự giúp đỡ hoặc xúc tiến bảo tồn con đường tu chứng Phật Pháp. Từ việc học nghĩa lý Phật Giáo và ứng dụng đầy đủ những công năng lại mà xem, không thể không nói là có những chỗ thiếu hụt chưa hoàn bị. Lấy ví dụ để chứng minh điều này: Ngài Quảng Khâm Lão Hòa Thượng đến Đài Loan sau năm Quang Phục. Nhưng đối với Tín Đồ Phật Giáo Đài Loan họ rất cảm phục trước sự Tu Chứng của Ngài. Ngài lấy Thiền và Tịnh Độ để Hoằng Dương Phật Giáo. Lẽ nào lại nói đã thâm nhập Bát Nhã mà không thuần túy về Phật Pháp hay sao? Vậy thì những luận thuật của Ngài Ấn Thuận Pháp Sư, nhất là luận thuật của Ngài đối vối truyền thống Thiền và Tịnh Độ thì không thể phủ nhận. Như thể Ngài Quảng Khâm Lão Hòa Thượng là một vị xuất thân từ Phật Giáo Mân Nam, là người tu hành được mọi người tiếp nhận và thực hành theo.
Hai vị này đạo lý thì giống nhau, còn truyền thống Tông Phái khác nhau. Như thế, Ngài Ấn Thuận từ đâu mà có thể giữ gìn, có thể tiềp tục duy trì truyền thống đó? Nghiên cứu về nghĩa học của Ngài Ấn Thuận Pháp Sư thì thiếu đi tính năng này. Nhưng không sao, những thiếu sót này cũng là những ranh giới giữa tư tưởng và tính cách nội tại của Ngài mà tạo thành.
3. Sau này, từ Ngài Ấn Thuận Pháp Sư, chúng ta có thể khẳng định lại lý tưởng hình thái Phật Giáo. Lúc này, cái gọi là「Hành Bồ Tát Đạo Tại Thế Gian」là do Ngài Ấn Thuận kế thừa tư tưởng của Ngài Thái Hư Đại Sư. Đề xuất khế hợp tư tưởng nhân văn, lý tánh dưới thời đại Nhân Gian Phật Giáo, đương nhiên là đáng khen.
Vậy thì chúng ta cũng cần xem, ngài đề xướng con đường Bồ Tát của Nhân Thừa hoặc cách Hành Bồ Tát của Phàm Phu, đơn giản hóa Đại Thừa Bồ Tát Đạo. Cái này gọi là khuynh hướng đơn giản hóa Bồ Tát Đạo. Đặc biệt, thấy rõ biểu hiện ở nơi Ngài là làm cho các Tông Phái Phật Giáo khế hợp. Như Thiền Tông, nhờ bị phê bình mà làm「Sống Lại Tinh Thần Cấp Chứng Của Tiểu Thừa」tinh thần đoạn trừ Tam Độc vẫn là tinh thần Căn Bản của Phật Giáo. Đối với khuynh hướng tu chứng có phần hoài nghi và đè nén, chính là「Nhân Gian Phật Giáo Của Ngài Ấn Thuận Pháp Sư」Cho nên, đơn giản hóa mà không phù hợp với căn bản của tinh thần chân chánh Đại Thừa Bồ Tát Đạo, mà lại đơn giản hóa con đường Bồ Tát, thì có thể nói là xúc tiến Thế Tục Hóa Phật Giáo
Ngày nay, giới Phật Giáo Đài Loan đang Đơn Giản Hóa, Thế Tục Hóa một cách bao trùm. Có thể nói như thế này「Nhân Gian Phật Giáo」dù ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đều không liên quan với nhau.
4. Sự tư duy về Phật Giáo của Ngài Ấn Thuận Đại Sư, vấn đề cơ bản là ở phương diện Tu Chứng. Cho nên, những bài Luận và Trước Tác về Phật Giáo của Ngài cũng có rất nhiều trang trần thuật về con đường tu chứng của minh.
Những trang này, toàn bộ dựa vào những Kinh Luận Đại Thừa và Tiểu Thừa được soạn thuật tại ấn Độ mà nói ra, nó được trình bày rất rõ ràng.
Đối với con đường nghĩa học có khuynh hướng đi xuống, còn con đường tu chứng rất mơ hồ, rất chung chung của Phật Giáo Truyền Thống. Nhưng, cuối cùng con đường tu chứng cũng được sáng tỏ. PHải có kinh nghiệm thể chứng để làm chổ y cứ, nếu không thì Kinh Luận chỉ có thể là suy xét tìm kiếm ở nơi tài liệu. Nó không có giá trị gì bấy nhiêu.
Bởi vậy, chính xác mà nói, Nghĩa Học và Tu Chứng của Phật Giáo, cũng giống như chiếc xe có 2 bánh vậy. Cần phải hổ trợ phối hợp với nhau thật nhịp nhàn, mới có thể đối với vấn đề của Phật Giáo mà lý giải một cách chính xác. Mới có thể chân chánh phát triển Phật Giáo một cách mạnh mẽ. Nếu đứng ở lập trường chức năng nghiên cứu chuyên môn Kinh Luận để trở thành một vị Thầy Tôn Giáo, thì nên tán thán chứ không nên chỉ trích Ngài. Nhưng cái nhìn về Phật Giáo của Ngài Ấn Thuận Pháp Sư lại có khuynh hướng hoài nghi về tu chứng của mình. Ví dụ như Ngài phê phán tệ nạn phổ biến của các Tông Phái đặc thù như Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông. Lại coi thường chánh tông của họ. Những Tông Phái này chủ yếu chỉ lưu truyền bởi sự thể nghiệm thâm sâu của Bát Nhã. Nên đây không phải là điều công bình. Ví dụ như Ngài thích cường điệu nói về Kinh Điển Phật Giáo Nguyên Thủy, mà không có sự thâm sâu của Thiền Định, không có một chút Giải Thoát cho riêng mình. Lại nghi ngờ giới Phật Giáo có khinh hướng coi trọng Thiền Định một cách phổ biến. Cho rằng đó là nguyên nhân căn bản dẫn đến con đường biến chất của Phật Giáo. Bởi vậy, dưới sự ảnh hưởng của Ngài Ấn Thuận Pháp Sư, một người có nhiệt tâm với Tông Giáo mới có thể đầy đủ niềm vui. Còn nếu muốn tiến một bước trên con đường Tu Chứng, thì dể nảy sinh rất nhiều mâu thuẩn và bao điều khó khăn.
Tóm lại, miêu tả cái đặc sắc về tư tưởng Phật Học của Ngài Ấn Thuận Pháp Sư, giới Phật Giáo Đài Loan dưới sự ảnh hưởng lâu dài ở nơi Ngài, thì sẽ xuất hiện những khó khăn sau đây:
Đầu tiên, với tư cách là Phật Giáo Truyền Thống thuộc một phần cơ thể của Phật Giáo Đài Loan. Khi đối diện với văn chương sắc bén của Ngài Ấn Thuận Pháp Sư thì có một thách thức lớn là rất dể bị thuyết phục. Chúng ta không thể không chú ý đến sự uy hiếp này của Ngài. Nhưng phần đông mà nói, giới Phật Giáo Truyền Thống hiện nay rất ít giống những ưu tú này của Ngài Ấn Thuận Pháp Sư, khi họ nghiên cứu về nghĩa học, về luận thuật của Ngài. Bởi vậy, cũng không có năng lực làm hình thái Tín Ngưỡng, để biện luận một cách thích ứng. Đồng thời với việc này, như trên đã nói, bộ phận ủng hộ Phật Giáo Truyền Thống đã xuất hiện bộ mặt rất tự nhiên dưới sự ảnh hưởng của Ngài Ấn Thuận là chạy trốn hoặc chống đở. Nhưng chạy chốn và chống đở cũng không sửa đổi được sự ảnh hưởng về tư tưởng của Ngài ấn Thuận. Sức ảnh hưởng của Ngài tại Đài Loan với xu thế càng ngày càng lớn. Những người kiên trì giữ gìn Phật Giáo Truyền Thống, nội tâm của họ rất đau buồn, khó có thể tưởng tượng mà biết được
。Ngoài bộ phận Tín Đồ Phật Giáo tiếp nhận sự ảnh hưởng của Ngài Ấn Thuận Pháp Sư, họ rất khó khăn để trở lại với tông chính của minh, Cũng có thể nói là do vì học tập, tu chứng một cách mù mờ. Hình thái này có thể lược lại phân làm 3 loại:
Loại thứ nhất, như ở trên đã nói qua. Đó là họ lấy sự nhiệt tình của Tôn Giáo mà đem đi nghiên cứu Học Thuật.
Loại thứ hai, những điều đó không thể lấy sự nghiên cứu về nghĩa học là đủ, mà họ vẫn phải có Tu Chứng theo Ngài Ấn Thuận. Do vì những Trước Tác của Ngài Ấn Thuận rất khó, nếu hiểu được nó có thể làm con đường dẫn đến Tu Chứng. Điều này khiến cho họ khó có thể tìm ra con đường nào khác. Thật sự mà nói, phổ thông nhất vẫn là lấy việc cầu khấn Trời Phật làm phương pháp tu hành cho Phật Giáo Truyền Thống. vậy thì điều mâu thuẩn này rất khó dùng lời mà diễn tả ra được.
Loại thứ ba, ngoài một điều là khấn vái Trời Phật của Phật Giáo. Ở đây, đặc biệt cần chỉ ra là phương pháp tu hành của Phật Giáo Nam Phương. Khoảng 5, 6 năm gần đây, thường tâng bốc các đoàn thể Phật Giáo Nam Truyền hoặc Phật Giáo Nguyên Thủy xuất hiện ở Đài Loan. Những người đề xướng và các thành viên của những đoàn thể này, trên cơ bản là tiếp nhận『Diệu Âm Tập』của Ngài Ấn Thuận và lấy phần tử Thanh Niên Trí Thức làm chủ. Sự thật, xem lại lich sử Phật Giáo về Ngài Ấn Thuận Pháp Sư và「Phật Giáo Nhân Gian」của Ngài đề xướng, thì hiện nay đang tồn tại thành một thể hệ của con đường tu chứng trong các nước Phật Giáo. Lấy tính cách của Phật Giáo Nam Truyền thì không có sự xung đột, không có sự trách móc. Dưới sự ảnh hưởng của Ngài Ấn Thuận thì phong trào này xuất hiện trong giới Phật Giáo Đài Loan. Vậy những người tiếp nhận sự ảnh hưởng của Phật Giáo Nam Truyền, không thể lý giải và đồng lòng với cách giải thích của Ngài Ấn Thuận đối với giáo nghĩa đại thừa, thì ngược lại phê bình ngài.
Nói tóm lại, những người này khi nói về Giáo Lý và Lịch Sử Phật Giáo, trên cơ bản thì có rất nhiều ý kiến là làm theo quan điểm của Ngài Ấn Thuận Pháp Sư. Do vậy, có thể thấy sự quan hệ qua lại của hai nhóm người này. Giới Phật Giáo Tại Đài Loan lấy làm nghi ngờ chất vấn Phật Giáo Truyền Thống Trung Quốc và Đại Thừa, vì xuất hiện với tư thái của người làm lại từ đầu. Có thể nói là khoảng cách giữa Ngài Ấn Thuận và Phật Giáo Minh Thanh có những bước tiến khác nhau rõ ràng, thậm chí dẫn đến tình cảnh đường ai nấy đi
(Chú thich: đây là một bài tham luận của một hội thảo chuyên đề về phật giáo, người dịch muốn gửi đến quý đọc giả để tham cứu)