Trang chủ Văn hóa Giới thiệu sách Vòng hoa thực hành Đại ấn

Vòng hoa thực hành Đại ấn

86

Đối với những người đã sẵn sàng thì đó là một phương pháp siêu việt để đạt được Phật Quả trong cuộc đời.

Luận giảng Minh giải Chuỗi Ngọc của Con đường Năm Nhánh sâu xa này được Gyalwang Kunga Rinchen, Đấng Chiến Thắng thứ hai, biên soạn vào thế kỷ thứ XVI. Nó được dịch sang Anh ngữ cho những người may mắn, là những người từ tận đáy lòng có quan tâm tới việc đạt được giải thoát.

Bản văn của Kunga Rinchen bắt đầu với các giáo huấn căn bản nhất, dẫn tới những giáo huấn sâu xa và cao cấp nhất. Bước đầu tiên của người học đạo – không thể khác được – là quay lưng lại với luân hồi sinh tử và hướng tới sự giác ngộ.

Các thực hành chuẩn bị giúp ta thực hiện bước đi này và nếu chúng được tuân thủ một cách nghiêm mật, chúng sẽ củng cố ta trong chiều hướng mới bằng cách tịnh hóa bản chất của ta. Điều này đem lại sự gia hộ của lễ quán đảnh: ước nguyện ban đầu của người học đạo hướng tới sự giác ngộ dần dần được chuyển hóa thành năng lực thực hiện điều đó.

Trong khi nỗ lực thấu hiểu điều kiện (duyên) của bản thân và tất cả chúng sinh, ta phát triển lòng từ bi. Với lòng từ bi này, ta sẽ đi tới quyết định đạt được giác ngộ – không chỉ cho chính mình mà còn có thể giúp đỡ tất cả chúng sinh hiệu quả hơn.

Lòng thương yêu những người khác một cách sâu xa và tự nhiên này là Bồ Đề Tâm, cực điểm của các thực hành chuẩn bị.

Bồ Đề Tâm cũng là thực hành đầu tiên trong các thực hành thực sự của con đường năm nhánh, bốn thực hành kia là Deity yoga (Bổn Tôn du già), Guru yoga (Đạo Sư du già), Mahamudra (Đại Ấn), và sự hồi hướng.

Người thiết tha thực hiện tốt đẹp tất cả các thực hành này đang chuẩn bị những nhân để trở thành một vị Phật. Đối với người mới bắt đầu, Ngài Kunga Rinchen chia sẻ các thực hành này trong một chuỗi liên tục.

Đối với đệ tử cao cấp, năm nhánh là một toàn thể hợp nhất: mỗi nhánh phát xuất và hòa nhập vào tất cả những nhánh kia, và chúng cùng là trạng thái giác ngộ.

Mahamudra (Đại Ấn) là gì? Đó là Phật tánh, tâm nền tảng trong mọi chúng sinh. Thấu suốt nó là thấu suốt chân tánh của tất cả các hiện tượng, và thể nhập nó là trở thành một vị Phật, là một với tất cả các phẩm tính của Đức Phật.

Phật tánh, Đại Ấn, thì luôn luôn có ở đó, nhưng với những người ngoảnh mặt đi với nó thì nó vẫn là một bí mật. Để phát hiện nó, khám phá nó, ta cần phải thực hành và có sự dẫn dắt của một vị Thầy tâm linh thực sự.

Các thực hành chuẩn bị của con đường năm nhánh phát triển sự tái định hướng, sự tịnh hóa, và sức mạnh cần yếu cho việc thực hành Mahamudra. Các thực hành thực sự chính là con đường dẫn tới sự Giác ngộ.

Các thực hành chuẩn bị tổng quát gồm bốn điều: sự quy y cứu thoát chúng ta khỏi các con đường lầm lạc; thực hành Vajrasattva loại bỏ các chướng ngại trên con đường; cúng dường Mạn-đà-la đem lại năng lực mạnh mẽ; và sự sùng mộ Guru (Đạo sư) đem lại những gia hộ khiến ta có đủ năng lực để theo đuổi con đường.

Quy y là thực hành chuẩn bị quan trọng nhất, bởi không có nó ta sẽ không thực hiện nghiêm túc các thực hành khác. Quy y là tự định hướng một cách kiên định trên con đường dẫn tới Phật Quả và từ bỏ vòng luân hồi sinh tử. Để làm điều này, ta phải thực sự thấu hiểu luân hồi sinh tử (samsara) là một trạng thái lầm lạc và đau khổ không thể tránh khỏi; sau đó ta sẽ khảo sát làm thế nào tự giải thoát mình khỏi nó.

Bản thân chúng ta không biết phải làm thế nào. Thông thường chúng ta miệt mài nỗ lực để được thoải mái trong sinh tử, bởi ta biết nó và bị trói buộc vào những kinh nghiệm lạc thú của nó. Khi ta quyết định tự định hướng lại, ta phải nương cậy vào các giáo huấn của người đã từng thực hành nó, là người từng du hành trên con đường dẫn tới Giác ngộ.

Vì vậy chúng ta quy y Tam Bảo: Phật, là đấng Đạo Sư; Pháp, là các giáo lý của Ngài; và Tăng đoàn là cộng đồng tâm linh.

Sự từ bỏ luân hồi sinh tử không chỉ có nghĩa là nghiên cứu Giáo Pháp và khảo sát sự Giác ngộ; ta có thể hiểu biết Giáo Pháp một cách lý trí mà không thấu suốt sâu xa. Sự thấu suốt đến từ bốn “nền tảng thông thường”: thiền định về lẽ vô thường, thiền định về nhân và quả, thiền định về các phiền não của sinh tử, và thiền định về sự quý báu và hi hữu của đời người.

Giờ đây đang có được một thân người, chúng ta có thể khởi hành trên con đường dẫn tới Phật Quả; đây là một cơ hội cần phải nắm bắt.

Những nền tảng này được gọi là bốn cách chuyển tâm, xoay chuyển nó khỏi luân hồi sinh tử. Không có những thiền định này thì việc quy y của một hành giả sẽ không đầy đủ. Ta cần thấu suốt rõ ràng bản tánh của sinh tử và sau đó kiên quyết tự hướng mình tới Giác ngộ; bằng cách này ta tiến tới gần con đường.

Để đạt được Giác ngộ, ta cần tích tập trí tuệ và lòng bi mẫn, là hai sự tích tập; khi chúng đã hoàn hảo thì ta sẽ có khả năng thể nhập bốn thân của một vị Phật. Việc phát triển trí tuệ và lòng bi mẫn không phải là một việc dễ dàng – nó đòi hỏi rất nhiều sức mạnh.

Và sức mạnh này có được là nhờ các thực hành chuẩn bị: thực hành Vajrasattva, cúng dường mạn đà la, và Guru yoga. Các thực hành này mang lại sự tịnh hóa, sự củng cố, và những gia hộ đầy năng lực đặc biệt.

Thực hành Vajrasattva quét sạch những chướng ngại trên con đường. Tâm căn bản giống như một tấm gương, nó không thể phản chiếu các đối tượng khi nó dơ bẩn; khi gương được lau chùi kỹ lưỡng, nó có thể phản chiếu thật rõ ràng bất kỳ đối tượng nào. Tâm căn bản của tất cả chúng sinh chính là Phật tánh, nhưng nó bị bụi bặm của luân hồi sinh tử che phủ. Thiền định Vajrasattva là một thực hành tịnh hóa thật mãnh liệt.

Cúng dường Mạn-đà-lalà một phương cách để phát triển và duy trì trí tuệ (chứng ngộ Mahamudra) và lòng bi mẫn (Bồ Đề tâm sâu xa). Ước muốn sâu xa chính mình và tất cả chúng sinh có thể đạt được Giác ngộ, chúng ta cúng dường Mạn-đà-la – tượng trưng toàn thể vũ trụ – lên các đấng Giác ngộ tràn đầy lòng bi mẫn và trí tuệ. Chúng ta hiến tặng tất cả, bản thân ta và mọi sự. Việc cúng dường này giúp ta cắt đứt sự bám chấp và tham luyến cuộc đời này. Hơn nữa, công đức ta có được nhờ việc cúng dường Mạn-đà-la cho ta sức mạnh nuôi dưỡng Bồ Đề tâm.

Guru yoga ban tặng những gia hộ. Đạo sư là điển hình, khuôn mẫu. Nếu chúng ta nhìn Đạo sư như con người bình thường thì tâm ta sẽ vẫn ở trong trạng thái bình phàm, nhưng nếu ta nhìn ngài như Đức Vajradhara, ta sẽ nâng tâm thái của chúng ta lên. Việc coi Đạo sư như Vajradhara là một phương cách hợp nhất tâm ta với trạng thái Vajradhara. Nhờ nghĩ tưởng Đạo sư là Đức Vajradhara, chúng ta nhận được những gia hộ khiến bản thân ta thành tựu trạng thái đó. Khi chúng ta coi Đạo sư như bậc có lòng bi mẫn và sự minh triết thì năng lực lòng sùng mộ của ta diệt trừ những sự bất quyết trong tâm ta; đây là điều mà chúng ta gọi là sự gia hộ của Đạo sư. Quả thực Đạo sư phải có các phẩm tính tốt đẹp và những chứng ngộ; nhưng năng lực quan trọng trong pháp Guru yoga là năng lực của hành giả – sự kính ngưỡng và biết ơn của đệ tử.

Khi bạn thực sự nghiên cứu và thực hành, một vài kinh nghiệm hé nở trong tâm bạn, và cùng với nó là một sự xác tín và hoan hỷ không thể diễn tả được. Khi điều này xảy ra, bạn cảm nhận một lòng sùng mộ chân thật không chút gắng gượng.

Đây là lòng sùng mộ không đơn thuần xuất phát từ đức tin vào Đạo sư mà từ kinh nghiệm riêng của ta, và nó là kinh nghiệm của Guru yoga đích thực. Với lòng sùng mộ sâu xa này, ta nhận được bốn quán đảnh, chúng đem lại các sự ban phước đặc biệt khiến ta khai triển bốn Phật Thân.

Các thực hành chuẩn bị đặc biệt là sự vun trồng lòng từ và bi, một tâm thức thật dịu dàng ước muốn tất cả chúng sinh có thể được hạnh phúc và thoát khỏi đau khổ. Việc phát triển hai đức tính này là cần thiết, nhưng chỉ như thế thì không đủ.

Ta phải làm gì để mang lại hạnh phúc cho chúng sinh? Một người vô minh không thể giúp đỡ gì được. Vì thế chúng ta phải trở nên thông tuệ, phải đạt được Giác ngộ. Để đạt được mục đích đó, chúng ta cần đi theo một con đường toàn hảo và Mahamudra (Đại Ấn) là con đường như thế.

Chúng ta bắt đầu bằng việc nuôi dưỡng một tâm thức mạnh mẽ ước muốn thành tựu Giác ngộ vì lợi lạc của những người khác; tâm đó là Bồ đề tâm. Không có nó thì mọi thực hành đều vô ích; có nó, thành tựu cuối cùng – sự Giác ngộ – là điều chắc chắn.

Phương cách duy nhất để phát triển lòng từ, bi, và Bồ đề tâm là sự quan tâm sâu sắc tới chúng sinh; nếu họ không hiện hữu thì tình thương (lòng từ) sẽ vẫn là một điều bí ẩn. Vì thế, rõ ràng là sự Giác ngộ của riêng ta tùy thuộc vào chúng sinh: không có họ để thương yêu thì ta không thể tiến bộ trên con đường.

Bồ đề tâm, thực hành cuối cùng trong các thực hành chuẩn bị, đồng thời là thực hành đầu tiên của năm thực hành thực sự: Bồ đề tâm, thực hành Yidam (Bổn Tôn), Guru yoga, Mahamudra, và hồi hướng.

Nhờ thực hành yidam (Bổn Tôn du già) ta thể nhập mọi phẩm tính của Đức Phật nơi chính mình. Phật tánh – cốt tủy của tất cả chúng sinh – được nói rằng thực sự là một điều bí mật. Đức Phật đã giảng dạy về sự bí mật đó: trong việc thiền định, ta trở thành một với Yidam Bổn Tôn, để nhận ra bản tánh của Bổn Tôn nơi bản thân ta.

Đó là điều bí mật của Tantra (Mật điển) và lý do tại sao thực hành Bổn Tôn được gọi là cốt tủy của Mật thừa. Bạn đang chuyển hóa trạng thái bình phàm của bạn thành trạng thái thuần tịnh, quán tưởng chính mình và tất cả chúng sinh – toàn thể vũ trụ – như được chuyển hóa thành các vị Phật trong một cõi Phật.

Guru yoga (Đạo sư du già) được gọi là cốt tủy của sự hiểu biết, trí tuệ đưa ta tới sự Giác ngộ; sự hiểu biết đó được thọ nhận từ Đạo sư. Pháp yoga này có hai cấp độ. Thực hành chuẩn bị của Guru yoga là sự nuôi dưỡng lòng sùng mộ bằng cách nhìn vị Thầy của ta như Đức Vajradhara.

Trong thực hành thực sự của Mahamudra, Guru yoga là sự an lập trong dòng tương tục những nguyên nhân của chính mình để thể nhập bốn thân của một vị Phật.

Mahamudra (Đại Ấn) thì vượt trên tư tưởng và ngay cả vượt xa chữ nghĩa nữa – nó phi thường và không thể diễn bày. Nó là sự Giác ngộ, tâm căn bản thuần tịnh, cốt tủy của ý nghĩa, bản tánh chân thật, tánh Không.

Tất cả những cách diễn đạt này nhằm để chỉ một mặt trăng mà đệ tử không thể nhận ra. Những bậc đã chứng ngộ Mahamudra biết rằng nó có thể được thực hiện; và để gợi lên ý nghĩa của sự chứng ngộ đó, các ngài nói về sự hợp nhất của tánh Không và sắc tướng, của hình tướng thuần tịnh và tánh Không, của sự tương đối và tuyệt đối.

Chứng ngộ sự hợp nhất này là chứng ngộ Mahamudra, nhưng việc mô tả nó đòi hỏi tính nhị nguyên của tư tưởng. Các Đạo sư nói đến việc an trụ tâm vào tánh Không, vào sự bất nhị; các ngài không thể truyền đạt kinh nghiệm của các ngài về điều này, nhưng các ngài có thể dẫn dắt thực hành thiền định của đệ tử hướng đến kinh nghiệm đó.

Tánh Không là bản tánh chói ngời của tâm – chứ không phải là sự bận rộn suy nghĩ thường trực của nó. Với một người sơ học, ‘vô niệm’ chỉ có nghĩa là một cái đầu trống rỗng, nhưng đó không phải là cái mà tác giả nói tới. Bản tánh chói ngời này của tâm là cái gì vượt lên sự nhị nguyên và bất nhị.

Đối với các người sơ học, Đạo sư chỉ rõ Mahamudra, cái thấy về tánh Không, nhờ những lý luận Trung đạo được đặt nền trên các giáo lý của Nagarjuna (Long Thọ Bồ tát). Các đệ tử sẽ hiểu biết trên căn bản của giáo huấn, nhưng tuy thế họ sẽ không thấu suốt. Họ phải thực hành, phải làm việc để khám phá Phật tánh trong bản thân họ.

Ngài Kunga Rinchen chỉ rõ rằng samsara (luân hồi sinh tử) và Mahamudra là một; thông thường chúng ta nghĩ rằng chúng là hai điều khác biệt, một cái thật khủng khiếp và cái kia thì tuyệt vời. Khi chưa giác ngộ, đệ tử cảm thấy sự Giác ngộ thì khác biệt và cách xa; nhưng thực ra nền tảng và mục đích là một. Luân hồi sinh tử không phải là cái gì tách biệt với sự Giác ngộ, nó không xa rời Phật tánh.

Chúng ta cho rằng mình bị mắc cạn trong sinh tử và cần phải đi tới một nơi nào khác, nhưng đó là một hiểu biết sai lầm. Nghĩ rằng chúng ta phải khám phá tánh Không để đương cự lại các phiền não, chúng ta thiết lập một sự phân cực, một sự đối kháng giữa chúng. Nhưng nếu làm thế, chúng ta có thể rơi vào lỗi lầm là đơn thuần khước từ quán tưởng về các phiền não và thay vào đó suy nghĩ về tánh Không. Đó không phải là điều được tìm kiếm. Người ta cần nhận ra rằng mọi hiện tượng – và cả các phiền não – có bản tánh của tánh Không; chúng không tách biệt với tánh Không.

Mahamudra chính là những sự vật như chúng là, chân tánh của các hiện tượng. Khi Đạo sư chỉ rõ Mahamudra, ngài đang biểu thị điều Đức Phật đã dạy; những gì Đức Phật giảng dạy chỉ là như thế. Nói rằng lửa thì nóng không có nghĩa là chấp nhận hay bác bỏ nó – khi sức nóng đã được kinh nghiệm, nó được thấu hiểu. Cũng thế, Mahamudra là cách các sự vật là; việc kinh nghiệm nó siêu vượt bất kỳ sự khẳng định nào.

Hồi hướng là sự bắt đầu và chấm dứt của việc thực hành; sự nghiên cứu và làm việc của chúng ta không phải để dành cho bản thân ta. Gốc rễ của đức hạnh ở trong chúng ta – Phật tánh – thì giống như một giọt nước: một mình nó, nó sẽ khô đi và biến mất, nhưng nếu chúng ta đổ giọt nước vào đại dương thì nó sẽ không bao giờ khô cạn.

Vì thế, nếu chúng ta hồi hướng giọt đức hạnh của chúng ta vào đại dương trí tuệ thì nó sẽ thêm vào đại dương mãi mãi, giúp đỡ mọi chúng sinh thành tựu Giác ngộ.

Thông tin về cuốn sách:
Tên sách: Vòng hoa thực hành đại ấn – Bản dịch tác phẩm Minh giải Chuỗi Ngọc của Con đường Năm Nhánh sâu xa
Tác giả: Khenpo Konchog Gyaltsen
Khổ: 13 x 20,5 cm
Số trang: 190
Giá: 38.000 đ

Showroom: 119C5 Tô Hiệu, Cầu Giấy, HN
Tel: 04  6 281 3638 – Fax: 04 6 2813673
Email: [email protected]

VP HCM: 533/9 Huỳnh Văn Bánh, P. 14, Q. Phú Nhuận
Tel: 08  6 276 1719 – Fax: 08 3 9913276.
Email: [email protected]