Trang chủ Diễn đàn Về "Thông tư quản lý tiền công đức" sắp được ban hành

Về "Thông tư quản lý tiền công đức" sắp được ban hành

129

Chính khái niệm “quản lý” này đã nảy sinh không ít tranh luận và cách hiểu khác nhau. Có người bảo vấn đề quá nhạy cảm không nên đụng đến, người thì bảo cần công khai tiền công đức, thậm chí đánh thuế thu nhập của nhà chùa…
 
Trước vấn đề này, ông Huỳnh Vĩnh Ái giải thích: “Ở đây không phải nhà nước thu tiền công đức của dân mà khi phát sinh nguồn thu cần phải minh bạch và được quản lý”.
 
Mục đích ra đời của thông tư được giải thích là nhằm quản lý tiền công đức hiệu quả; chế tài rõ ràng về việc sử dụng tiền công đức như thế nào, cho những nội dung cụ thể gì; quy định về cơ chế thanh quyết toán, thẩm quyền xử lý liên quan đến việc chi tiêu tiền công đức…
 
Báo Thanh Niên đặt câu hỏi “Ai quản lý tiền công đức?”, đồng thời phân tích: “Hiện nay, mô hình quản lý di tích chưa thống nhất, vì vậy, mỗi di tích lại có một cấp, hoặc nhiều cấp khác nhau cùng quản lý: cơ quan quản lý (như các UBND, Sở VH-TT-DL…), nhân dân (như Hội người cao tuổi, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc…), cá nhân (sư trụ trì, thủ từ…). Do vậy, tiền quản lý công đức ở mỗi di tích cũng được quản lý khác nhau: nơi do cá nhân tự thu – chi, nơi do nhiều cấp thu và quản lý, tiền thu được chia theo những phần trăm khác nhau. Chẳng hạn như tại chùa Hương, ông Nguyễn Chí Thanh – Trưởng ban Quản lý di tích Hương Sơn (Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Nội) – cho hay ban quản lý chỉ thu phí thắng cảnh, đò, thuê hàng quán…, còn tiền giọt dầu, công đức, cung tiến từ trước tới nay đều do nhà chùa tự thu và quản lý. Trong khi đó, tiền công đức tại đền Bà Chúa Kho do Hội người cao tuổi của phường (Cổ Mễ, Vũ Ninh, TP.Bắc Ninh) thu và quản lý…”.
 
Thực tế khi lượng tiền công đức đổ về các đền chùa, miếu mạo ngày một tăng thì đã có khá nhiều các cơ quan, tổ chức quan tâm đến việc “quản lý”. Vấn đề là khi thông tư ra đời thì cấp nào, hội nào sẽ quản lý? Đối tượng nào nằm trong diện phải quản lý? Quản lý như thế nào? Ai là người giám sát sự quản lý đó? Bởi vấn đề có minh bạch được hay không phụ thuộc rất nhiều vào “người quản lý” và “người giám sát”.
 
Xin đơn cử trong lĩnh vực tiền công đức thuộc phạm vi nhà chùa quản lý. Khi Giáo hội cử vị sư có đầy đủ tài đức về quản lý động sản, bất động sản và chăm sóc đời sống tinh thần, tâm linh của nhân dân là Giáo hội đã trực tiếp tin tưởng giao phó cho vị ấy theo đúng tinh thần của Hiến chương Giáo hội. Đồng thời chính Phật tử và nhân dân địa phương sẽ là “người giám sát” tốt nhất không chỉ về đạo đức tu hành của vị sư mà còn cả những vấn đề thu chi từ tiền công đức nữa.
 
Vậy thì đặt vấn đề “ai quản lý” tiền công đức trong phạm vi nhà chùa là thừa, vì như thế chẳng khác gì dùng “quản lý” để chồng lên “quản lý”, nói một cách cụ thể là “thế tay thợ đẽo”.
 
Giáo hội Phật giáo Việt Nam là một tổ chức xã hội với đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý, được vận hành từ cấp trung ương đến cấp địa phương, do đó không ai khác, chính Giáo hội phải kiện toàn bộ máy để làm sao quản lý một cách minh bạch, hiệu quả các nguồn nhân lực, vật lực của mình. Thế nên, đối với các cơ sở tôn giáo thuộc về một tổ chức Giáo hội thì cần phải có cơ chế giám sát, để các hoạt động tài chính được minh bạch. Còn đối với những đền, miếu không thuộc một tổ chức tôn giáo quản lý thì phải giao cho cơ quan cụ thể quản lý.
 
Chẳng hạn sự thiếu minh bạch xảy ra khi tiền công đức không được công khai, không được quản lý bằng sổ sách, hay có những nơi người ta dùng tiền công đức của thập phương để chi tiêu vào những việc của cá nhân, làm giàu cho gia đình thế tục của mình một cách đáng ngờ. Vì thế, việc nhà nước ra quan tâm tới việc quản lý tiền công đức là phù hợp với thực tiễn khách quan.
 
Tuy nhiên, cần phải xác định rõ khái niệm “quản lý” này. Bởi đối với các đền phủ, miếu mạo không thuộc một tổ chức tôn giáo quản lý thì việc cắt cử cơ quan “quản lý” tiền công đức là đương nhiên. Nhưng đối với các chùa, nhà thờ, thánh thất của các tôn giáo cụ thể được nhà nước công nhận về tính pháp lý thì không nên đặt ra khái niệm “quản lý” mà chỉ cần có cơ chế hướng dẫn, giám sát để các hoạt động thu chi diễn ra một cách minh bạch, công khai.
 
Chẳng hạn tài sản đứng tên cá nhân trong các ngân hàng phải được hiểu là tài sản của chính ngôi chùa mà nhà sư đó trụ trì.
 
Như vậy, trước thực tế này, Giáo hội cần phải điều chỉnh công tác quản lý của mình, thậm chí phải đưa vấn đề quản lý tiền công đức vào Hiến chương, thông qua hướng dẫn báo cáo định kỳ. Từ đó, căn cứ vào thực tế báo cáo thu chi để xác định mức phí mà các cơ sở tự viện phải đóng cho Giáo hội. Đóng phí cho Giáo hội cần được hiểu là trách nhiệm và nghĩa vụ của các tự viện.
 
Tuy nhiên, số tiền đó được chi dùng vào việc gì, cơ chế giám sát ra sao cũng cần phải được quy định cụ thể, nhằm minh bạch mọi hoạt động thu chi.
 
Nhưng thế nào thì gọi là “tiền công đức”. Ở một số chùa, đền, miếu thuộc di tích lịch sử có đông người hành hương thì tiền được bỏ nhiều vào thùng công đức, được ghi phiếu công đức, hay được thu rải rác từ các ban thờ. Còn hầu hết các chùa trên cả nước, số tiền bỏ vào thùng công đức gần như không đủ để chi tiêu cho các việc sinh hoạt, điện nước, hoa trái cúng Phật, hoặc các chi phí nuôi chúng tăng ăn học…
 
Thậm chí tiền do các thí chủ vì mến mộ tài đức mà cúng riêng cho vị trụ trì, hay tiền do các hoạt động nghi lễ mang lại cũng được vị trụ trì bỏ ra chăm sóc cho các hoạt động Phật sự tại chùa.
 
Nếu họ thiếu tiền sinh hoạt, nhà nước có tài trợ hay cấp kinh phí, cấp lương cho họ sinh hoạt hay không? Vậy thì quản lý “tiền công đức” ở đây là “quản lý” tại các chùa di tích, có đông người hành hương tham quan mà không có các vị sư trụ trì (chức sắc tôn giáo), hay quản lý thùng công đức tại tất cả các chùa, đình, đền, miếu, nhà thờ, thánh thất… nói chung? Nếu không xác định cụ thể sẽ gây ra những hoài nghi và phản ứng trong dư luận.
 
Bởi toàn bộ số tiền mà một tín đồ cúng vào các cơ sở tôn giáo đã được tính thuế thu nhập, thuế kinh doanh, vì thế khi họ tình nguyện trao tặng số tiền đó cho các cơ sở tôn giáo hoạt động, thậm chí cúng riêng cho vị cai quản cơ sở tôn giáo cũng là điều hoàn toàn hợp pháp. Số tiền ấy không thể được gộp chung với khái niệm “tiền công đức” như của khách hành hương, vãng lai được.
 
Vấn đề là số tiền ấy, cho dù vị trụ trì có dành dụm, cất giữ thì sau khi mất đi cũng phải giao lại cho người kế nhiệm quản lý, chứ không thể chia theo luật thừa kế được. Thực tế, có một số vị chức sắc, chùa rất ít khách vãng lai, nhưng vẫn được cúng dường khá nhiều tiền, có tài khoản lớn ở ngân hàng, vậy sau khi vị ấy viên tịch, số tài khoản này cần phải được giao về cho Giáo hội quản lý, không thể để số tiền đó lọt ra bên ngoài, tránh xảy ra tình trạng mượn đạo tạo đời.
 
Ông Huỳnh Vĩnh Ái có khẳng định rằng “không phải nhà nước thu tiền công đức của dân mà khi phát sinh nguồn thu cần phải minh bạch và được quản lý”. Vậy nếu nhà nước không thu tiền công đức của dân, thì khái niệm “quản lý” này được hiểu theo cách nào, áp dụng với đối tượng nào, trường hợp nào? Bởi khái niệm “tiền công đức” và khái niệm “quản lý” là hai khái niệm rộng, có thể gây ra những hiểu nhầm, tạo ra những mâu thuẫn và xung đột lợi ích giữa các cơ quan, tổ chức, nếu không muốn nói là can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo.
 
Ai cũng rõ, hầu hết các tôn giáo được sinh hoạt chủ yếu nhờ vào tiền công đức của tín đồ, rất ít nơi có các cơ sở kinh doanh. Tuy nhiên, nếu tôn giáo có các cơ sở kinh doanh thì cũng phải đóng thuế một cách bình đẳng như bao công dân khác trong xã hội. Còn các cơ sở tôn giáo khi sinh hoạt dưới danh nghĩa một tổ chức giáo hội thì họ phải thực hiện các trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với tổ chức đó.
 
Cao hơn tất cả các mục tiêu lợi nhuận, sự tồn tại của cơ sở tôn giáo và cá nhân các vị tu hành còn trở thành niềm tin, tình cảm thiêng liêng nơi mỗi tín đồ. Niềm tin ấy ngày càng gia tăng và gắn bó khi các vị trụ trì tăng trưởng đạo hạnh, có uý tín với cộng đồng. Tiền cúng vào các cơ sở tôn giáo sẽ được chăm lo cho đời sống tinh thần, tín ngưỡng của người dân với nhiều các sinh hoạt tôn giáo phong phú diễn ra quanh năm, từ các lễ hội lớn nhỏ đến các chi phí sinh hoạt hàng ngày. Còn các việc từ thiện xã hội khác, thường được vận đóng đóng góp trực tiếp và tiến hành một cách công khai, minh bạch, dưới sự chứng kiến của người đóng góp, không hề có tư lợi.
 
Như vậy, đặt vấn đề quản lý “tiền công đức” đối với các tôn giáo không khéo sẽ lợi bất cập hại. Vì sao, vì tiền công đức là một loại tiền đặt biệt, được đóng góp một cách tự nguyện, không chịu bất cứ một ép buộc nào. Một khi tín đồ thấy số tiền công đức của mình cúng vào các cơ sở tôn giáo bị “nhòm ngó”, thì họ sẽ tìm mọi cách để bảo vệ nó. Thực tế, việc bỏ tiền lẻ bên ngoài, không bỏ vào thùng công đức là cách họ tẩy chay thùng công đức. Ở miền Bắc trước kia, ai cũng rõ, thùng công đức không thuộc về các nhà chùa quản lý, mà do một ban nào đó trong xã bầu ra, nhiều khi không minh bạch, không quan tâm cho việc tu sửa chùa chiền… Sau này, có nơi dù nhà nước đã giao cho nhà chùa quản lý thì vẫn chưa xoá bỏ hẳn được tâm lý tẩy chay thùng công đức của người dân.
 
Nếu tín đồ nghi ngờ số tiền của họ bị chi sai mục đích thì họ sẽ phản ứng. Họ tin vào chức sắc của họ hơn là tin vào các tổ chức ngoài tôn giáo. Và nếu tín đồ họ thấy giáo sản bị người ngoài nhòm ngó, thì theo tâm lý, họ vẫn muốn làm lợi cho tôn giáo của mình, bảo vệ cho được giáo sản ấy. Bởi một khi khoảng cách ý thức hệ giữa giáo quyền và thế quyền còn xa nhau, thì đặt vấn đề “quản lý” tiền công đức nhắm vào các tổ chức tôn giáo chỉ làm gia tăng thêm những mâu thuẫn về lợi ích và gần như không giải quyết được vấn đề gì cả, nếu những cơ quan “quản lý” này phát sinh tiêu cực mới.
 
Ngay tại ở nước Mỹ, mỗi khi cơ sở tôn giáo có kiểm tra thu chi tài chính, thì gần như họ tìm mọi cách để lách luật bằng việc lập bảng thu chi khống, nhằm làm tròn các con số, và số tiền được kê khai đó cuối cùng cũng không có gì là minh bạch cả.
 
Ngược lại, ở một số nước như Đức, Phần Lan, Áo, Thuỵ Sĩ… người theo đạo Tin lành còn phải đóng thuế nhà thờ. Số tiền thuế đó sẽ được chuyển cho các nhà thờ sử dụng vào các mục tiêu cộng đồng khác nhau. Luật thuế được ban hành như vậy, nhưng cũng làm giảm đáng kể số lượng tín đồ. Vì thực tế, tiền công đức phải là hành vi tự nguyện, không thể coi như một dạng thuế đánh vào thu nhập.
 
Nếu cơ sở tôn giáo nào để xảy ra tình trạng thất thoát tiền công đức do cá nhân biển thủ nhằm mượn đạo tạo đời, thì tín đồ phải có kiến nghị với tổ chức tôn giáo đó dùng giáo luật để xử lý. Nếu các cơ quan bảo vệ pháp luật nhà nước nhận được đơn thư tố cáo, kết hợp cùng với tổ chức tôn giáo xác minh, đem vụ việc ra ánh sáng thì sẽ làm cho cuộc sống được lành mạnh hơn, tin chắc các tổ chức tôn giáo và tín đồ sẽ phải tâm phục khẩu phục.
 
Chúng ta hãy nhìn vào thực tế về quản lý và sử dụng đất đai sẽ rõ. Pháp luật quy định, đất thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước quản lý. Chính những bất cập trong khái niệm “sở hữu” và “quản lý” này đã tạo ra không ít những mâu thuẫn trong quản lý đất đai, tạo ra xung đột lợi ích giữa các tầng lớp nhân dân. Trong đời sống xã hội, quản lý nhà nước còn chưa thể công khai minh bạch được hết các vấn đề, thì đụng vào việc “quản lý tiền công đức” của các tôn giáo, là việc làm mạo hiểm, thế tay thợ đẽo không khỏi đứt tay. Một khi các lực lượng thế tục phải tham gia quản lý “tiền công đức”, thì chẳng khác nào báo động cho một cuộc khủng hoảng niềm tin, bởi các tổ chức xã hội đã không còn tin vào việc “quản lý” của nhau.
 
Tiền công đức không phải tiền tham nhũng, hối lộ, vì thế chỉ nên khuyến khích các tôn giáo tự quản và sử dụng tiền đó cho các lĩnh vực lợi ích cộng đồng một cách minh bạch là đủ. Nếu thấy các yếu tố không minh bạch, không giúp gì nhiều cho ích lợi cộng đồng, thì tại các chùa công, chùa di tích lịch sử văn hoá cần phải có chế độ thuyên chuyển để tránh tình trạng tiêu cực, tham lam, mượn đạo tạo đời.
 
Trong trường hợp tiền nhà nước phải rót xuống để trùng tu các di tích lịch sử thì phải quản lý cho thật hiệu quả, tránh thất thoát, lãng phí. Nhiều khi giao cho các nhà sư quản lý tiền trùng tu di tích còn hiệu quả hơn, vì lợi ích của họ gắn với ngôi chùa. Kinh phí nhà nước rót xuống, cộng với tiền công đức (xã hội hoá) sẽ càng làm cho di tích khang trang hơn, tránh được tình trạng “cha chung không ai khóc”. Thực tế, nhiều nơi, tiền trùng tu di tích giao cho nhà chùa, thì họ làm thì tốt hơn hẳn so với việc giao cho các cơ quan quản lý di tích thực hiện.
 
Không có minh bạch nào trong tôn giáo bằng việc sống với niềm tin nhân quả. Vì các giáo lý, giáo luật đã nói rất nhiều về việc sử dụng tiền công đức của thập phương. Người sống xứng đáng với niềm tin yêu của Phật tử và làm các hoạt động Phật sự mệt mỏi được minh bạch bằng chính nếp sống tu hành thường nhật của họ. Có nhiều vị trụ trì xây ngôi chùa to đẹp cho dân đến lễ bái, sinh hoạt tâm linh, nhưng căn phòng của mình vẫn đơn sơ, không có gì xa xỉ.
 
Chuyện tiêu cực xảy ra trong đời sống xã hội là luôn luôn có, nhưng chỉ có thể đặt câu hỏi “tiền công đức đi về đâu?”, một khi người dân, tín đồ và người trụ trì cơ sở tôn giáo không còn niềm tin ở nhau. Có bài báo viết về vấn đề tiền công đức như sau: “Không thể nộp hoàn toàn vào ngân sách nhà nước được vì như thế sai mục đích tín ngưỡng người dân. Nhưng cũng không thể đánh thuế được vì đền chùa có phải doanh nghiệp kinh doanh đâu? Và cũng không thể coi quản lý tiền công đức là một nghề vì sẽ là mầm mống của tiêu cực” (Tù mù tiền công đức).
 
Thiết nghĩ, tiền công đức tự nguyện là một dạng “hợp đồng xã hội đặc biệt” được xây dựng bằng niềm tin và cả sự thành kính nữa. Nên một khi ai đó không còn tin vào hoạt động của một cơ sở tôn giáo nào đó, thì chỉ cần dừng ngay cái việc bỏ tiền vào thùng công đức là được. Bởi ai cũng rõ, người dân từ mua một lít xăng, một thẻ hương đến một cái kẹo cũng đã phải chịu thuế ở trong đó rồi. Không thể có một thứ thuế đánh vào niềm tin thiêng liêng của họ. Và những người không tôn giáo càng không thể quản lý “tiền công đức” của tôn giáo được, vì giáo quyền và thế quyền có hai chức năng chuyên biệt. Nhà nước có làm thay được việc chăm lo đời sống tâm linh, tinh thần của những người có đạo hay không? Hơn nữa, có nhiều những việc chi tiêu đòi hỏi những ứng xử cấp thời bằng lương tâm, đạo đức tôn giáo, có những phương pháp bố thí không phải lúc nào người ta cũng cần đến hoá đơn, chứng từ…
 
Một khi nhà nước đã công nhận tổ chức tôn giáo nào đó, thì nhà nước phải chấp nhận thực tế quản lý và truyền thống sinh hoạt của tố chức ấy. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý đối với tôn giáo và điều chỉnh nó ở tầm vĩ mô, chứ không thể ở tầm quản lý “thùng công đức” được. Còn nếu chưa đủ khả năng tin tưởng, thì cần tác động, thúc giục các tổ chức tôn giáo cải cách hoạt động quản lý cho khoa học, thiết thực, công bằng hơn nữa. Đồng thời, bất cứ ngôi chùa nào, cá nhân nào xuất hiện những bất thường trong tài chính thì đều có thể tiến hành điều tra và xử lý khách quan.
 
Một thực tế khác, tín đồ tôn giáo cũng là những người trực tiếp đóng thuế cho nhà nước, họ cũng có quyền đặt ra vấn đề giám sát đối với các hoạt động “quản lý” nhà nước. Một khi quản lý nhà nước còn có những vấn đề bất cập, chưa thể công khai, minh bạch, thì làm sao có thể thuyết phục người khác về sự công khai, minh bạch. Hơn nữa, đặt vấn đề công khai, minh bạch “tiền công đức” đối với các tổ chức tôn giáo trong lúc này có vẻ chưa được tế nhị. Bởi nếu các quan hệ xã hội chỉ được nhìn ở góc độ thực dụng, thì sẽ có nguy cơ biến các tôn giáo dần trở thành những lực lượng “cát cứ”, nảy sinh lợi ích nhóm, tạo cơ hội cho những mâu thuẫn xã hội tăng lên.
 
Cách tốt nhất là hoàn thiện và cho ra đời Luật tôn giáo với những quy định chi tiết, bao quát hơn, thay vì phải ra thông tư “quản lý tiền công đức”. Và nếu phải ban hành thông tư trên, thì Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch cũng nên có những tham khảo từ phía các tổ chức tôn giáo.