Quang lâm chứng minh lễ tưởng niệm có Trưởng lão HT.Thích Giác Tường – Uỷ viên Thường trực Hội đồng Chứng Minh (HĐCM), HT.Thích Tịnh Hạnh, HT.Thích Như Tín đồng thành viên HĐCM, chứng minh BTS GHPGVN TP.HCM; HT.Thích Thiện Nhơn – Chủ tịch Hội đồng Trị sự (HĐTS) GHPGVN; HT.Thích Thiện Pháp – Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS; chư tôn đức giáo phẩm Phó Chủ tịch HĐTS: HT.Thích Thiện Tánh, HT.Thích Thiện Tâm, cùng chư tôn đức các Ban, Viện T.Ư; chư tôn đức Ban Thường trực BTS GHPGVN TP, các ban trực thuộc, 24 BTS GHPGVN quận/huyện thuộc TP.HCM; cùng Tăng Ni, Phật tử các tự viện TP.
Trước giác linh đài Đại lão HT.Thích Trí Tịnh, chư tôn đức HĐCM, HĐTS đã thành kính dâng hương tưởng niệm về bậc Thầy mô phạm, vị lãnh đạo tối cao của Giáo hội qua các thời kỳ, nhà phiên dịch kinh tạng Đại thừa và là một hành giả suốt đời thực hành pháp môn Tịnh độ.
Tại buổi lễ, HT.Thích Thiện Pháp – Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS, Trưởng ban Tăng sự Trung ương GHPGVN đã cung tuyên tiểu sử Đại lão HT.Thích Trí Tịnh.
Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh năm Đinh Tỵ (1917), tại xã Mỹ An Hưng, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay là huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).
Ngài được sinh trưởng trong một gia đình trung nông, phúc hậu, nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam bảo.
Nhờ đã gieo căn lành từ nhiều kiếp, sớm giác ngộ cõi đời là hư huyễn, thế sự phù du, nên sau một thời gian đi chiêm bái khắp chốn thiền môn trong tỉnh, năm 1937, Đại lão Hòa thượng lên núi Cấm, đến chùa Vạn Linh, cầu xin Hòa thượng trụ trì Pháp húy Hồng Xứng cầu thế độ xuất gia. Khi trông thấy Hòa thượng, Tổ liền ấn chứng: “Các ông đừng khinh ông này, đời trước ổng đã từng làm Hòa thượng…”. Sau khi được Tổ cho phép xuất gia, ban Pháp húy là Nhựt Bình, hiệu Thiện Chánh tiếp nối dòng pháp Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41.
Sau khi xuất gia, Đại lão Hòa thượng đã đi tham học Phật pháp với chư sơn thiền đức ở trong và ngoài tỉnh, lần lượt nghiên cứu tài liệu Phật học in trong Tạp chí Từ Bi Âm, do Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học, chùa Linh Sơn – Sài gòn ấn hành và tham học với Hòa thượng Bích Liên, chùa Liên Tôn – Bình Định.
Năm 1940, ngài tiếp tục ra Huế học. Năm 1941, ngài đăng đàn thọ Sa-di giới tại chùa Quốc Ân và được Sư cụ Trí Độ đặt cho Pháp hiệu là Trí Tịnh.Năm 1945, ngài cùng với Hòa thượng Thích Thiện Hoa, thành lập Phật học đường Phật Quang, Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Vĩnh Long), do Hòa thượng Thích Thiện Hoa làm Giám đốc, Hòa thượng làm Đốc giáo kiêm Giáo thọ.Năm 1945, ngài được đăng đàn thọ Tỳ-kheo và Bồ-tát giới tại chùa Long An, Sa Đéc, do Hòa thượng Chánh Quả làm Đường đầu Hòa thượng.Năm 1948, ngài về Sài Gòn và thành lập Phật học đường Liên Hải, tại chùa Vạn Phước, xã Bình Trị Đông, huyện Long Hưng Thượng, tỉnh Chợ Lớn (nay là huyện Bình Chánh, TP.Hồ Chí Minh), do Hòa thượng làm Giám đốc, Hòa thượng Thích Huyền Dung làm Đốc giáo.Năm 1951, ngài cùng Hòa thượng Thích Thiện Hòa sáp nhập 3 Phật học đường Liên Hải, Mai Sơn, Sùng Đức thành Phật học đường Nam Việt, trụ sở đặt tại chùa Ấn Quang, quận 10, tỉnh Chợ Lớn (nay là quận 10, TP.Hồ Chí Minh).Năm 1957, ngài được Đại hội Giáo hội Tăng già Nam Việt cử làm Trị sự phó và kiêm Trưởng ban Giáo dục Giáo hội Tăng già Nam Việt.
Năm 1959, trong Đại hội Giáo hội Tăng già toàn quốc Việt Nam kỳ II, vào 2 ngày 10, 11-9-1959 tại chùa Ấn Quang, ngài được Đại hội suy cử làm Trị sự phó Giáo hội Tăng già toàn quốc Việt Nam.
Năm 1962, Đại lão Hòa thượng được Giáo hội Phật giáo Trung phần cung thỉnh vào cương vị Phó Viện trưởng Phật học Viện Trung phần Hải Đức – Nha Trang.
Năm 1964, ngài làm Trưởng đoàn Đại biểu Giáo hội Tăng già Nam Việt tham dự Đại hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam, được tổ chức tại chùa Xá Lợi trong những ngày 30, 31-12-1963 và 1-1-1964 để thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Tại Đại hội này, ngài được suy cử vào cương vị Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Tăng sự.
Năm 1966 – 1968, tại Đại hội kỳ II Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, ngài được suy cử vào cương vị Chánh Thư ký Viện Tăng thống.
Năm 1968 – 1971, ngài tham gia Ban Giảng huấn Phật học viện Huệ Nghiêm và giảng dạy Phật pháp cho lớp Chuyên khoa Phật học trong ba năm.
Năm 1970, Đại lão Hòa thượng đảm nhiệm cương vị Khoa trưởng Phân khoa Phật học tại Đại học Vạn Hạnh – Sài Gòn đến năm 1975. Năm 1971, sau khi Giáo hội thành lập Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm – Gia Định, ngài được cử làm Viện trưởng từ năm 1971 đến năm 1991.
Năm 1973, tại Đại hội Giáo hội Trung ương kỳ 4, ngài được suy cử đảm nhiệm cương vị Phó Viện trưởng Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Tại Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam, tổ chức tại thủ đô Hà Nội, từ ngày 4 đến 7-11-1981, ngài được Đại hội suy tôn ngôi vị Thành viên HĐCM, suy cử cương vị Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS kiêm Trưởng ban Tăng sự T.Ư.
Năm 1982, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo TP.Hồ Chí Minh, nhiệm kỳ I, Ngài được cử làm Trưởng BTS Thành hội Phật giáo TP.Hồ Chí Minh đến năm 1987.
Năm 1984, ngài được suy cử Quyền Chủ tịch HĐTS, rồi Chủ tịch HĐTS nhiệm kỳ II và những nhiệm kỳ tiếp theo cho đến ngày về cõi Phật.
Tại Đại hội kỳ III – 1992, Đại lão Hòa thượng được Đại hội suy tôn lên ngôi vị Phó Pháp chủ kiêm Giám luật HĐCM GHPGVN.
Từ Đại hội Mặt trận toàn quốc lần thứ II (1983) cho đến Đại hội VII, ngài được bầu làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch và tại Đại hội VI, VII (2009), ngài được bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQVN.
Mặc dù bận rộn nhiều công việc cho Giáo hội, ngài vẫn dành thời gian để dịch kinh và giảng kinh. Những tác phẩm Hòa thượng đã biên soạn, phiên dịch và phổ biến như: Kinh Pháp hoa, Kinh Hoa nghiêm, Kinh Đại bát Niết-bàn, Kinh Đại Bát-nhã, Kinh Đại bảo tích, Kinh Phổ Hiền hạnh nguyện, Kinh Địa Tạng bổn nguyện…
Năm 1995, Đại lão Hòa thượng khởi công xây dựng lại chùa Vạn Linh và Tháp Tổ Hồng Xứng – Núi Cấm, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
Năm 2000, với tư cách Chủ tịch HĐTS GHPGVN, ngài đã ký quyết định thông qua dự án và bổ nhiệm Ban Trùng tu cơ sở Văn phòng II Trung ương Giáo hội – thiền viện Quảng Đức, quận 3, TP.Hồ Chí Minh.
Với những công đức mà Đại lão Hòa thượng đã đóng góp cho Đạo pháp và Dân tộc, nên ngài đã được nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương MTTQVN tặng thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc Lập hạng nhất, Huy chương Vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bằng Tuyên dương Công đức của GHPGVN và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Là một trong những cao tăng cống hiến trọn đời cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh, Đại lão Hòa thượng đã có những đóng góp, những công đức to lớn trong công cuộc chấn hưng, thống nhất và hòa hợp Phật giáo, góp phần xây dựng và bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc, phụng sự đất nước.
Đại lão Hòa thượng là một bậc tôn sư khả kính đã có nhiều công lao giáo dưỡng và dìu dắt hàng trăm môn đồ đệ tử đã trưởng thành, noi gương từ bi hỷ xả, tự giác giác tha của Hòa thượng để bền vững đạo tâm và trang nghiêm Giáo hội.
Khi hạnh nguyện hoằng dương Phật pháp, tế độ chúng sinh đã viên mãn, thì cũng chính là lúc luật vô thường đưa Đại lão Hòa thượng trở về Tây phương kiến Phật vào lúc 9 giờ 15 phút, ngày 28-3-2014 (nhằm ngày 28-2-Giáp Ngọ) – trụ thế 98 năm, hạ lạp 69 năm.
Tiếp đó, HT.Thích Thiện Nhơn – Chủ tịch HĐTS đã tuyên đọc lời tưởng niệm Giác linh cố Đại lão HT.Thích Trí Tịnh của TƯ GHPGVN.
“Trong gần trăm năm trụ thế, 70 năm đóng vai long tượng chốn rừng thiền, mỗi lời pháp của Đại lão Hòa thượng là khơi nguồn trí huệ, mỗi việc làm của Đại lão Hòa thượng là mở lối tương lai, mỗi cử chỉ của Hòa thượng là thể hiện sự khoan dung độ lượng, lòng từ chan chứa. Đại lão Hòa thượng chính là hình ảnh giải thoát vô ngại, là lẽ sống muôn đời cho Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước học tập noi theo”.
“Thế hệ Tăng Ni, Phật tử hôm nay và mai sau là những người thừa hưởng sự nghiệp thống nhất Phật giáo Việt Nam, thừa hưởng gia tài quý báu mà Đại lão Hòa thượng đã thể hiện bằng sự sống, bằng hành động và bằng ý chí của bậc xuất trần thượng sĩ. Quả thật: “Hạnh nguyện sáng soi gương kim cổ, ân đức chan hòa chốn không môn”. Giáo hội Phật giáo Việt Nam sẽ luôn luôn tiếp tục phát triển ở chiều rộng lẫn chiều sâu bằng cách sống, bằng hành động, vì Đạo pháp và Dân tộc phục vụ không biết mõi mệt trên lộ trình thừa hành Phật sự”.
Tiếp đó, HT.Thích Hoằng Tri – Trụ trì chùa Vạn Đức đã đọc lời cảm tạ buổi lễ.
Kết thúc buổi lễ là phần tác bạch cúng dường trai Tăng của môn đồ đệ tử đến chư tôn đức Tăng Ni tham dự.
Trước đó, sáng cùng ngày, chư tôn đức môn đồ đệ tử chùa Vạn Đức đã có khoá lễ tụng kinh Phổ Hiện tại tháp Phù Thi và lễ cúng ngọ, tiến sư tại chánh điện chùa Vạn Đức.
Những hình ảnh ghi nhận tại buổi lễ:
Cung nghinh chư tôn đức quang lâm dâng hương tưởng niệm tại tháp Phù Thi – nơi an trí nhục thân cố Đại lão Hoà thượng Thích Trí Tịnh
Môn đồ pháp quyến tác bạch cung thỉnh chư tôn giáo phẩm quang lâm cử hành lễ tưởng niệm
Quang cảnh lễ tưởng niệm
Anh Quốc