Nhà tôi khi ấy bên kia sông Sài Gòn, bờ Thủ Thiêm. Trưa hè oi bức hay nhảy xuống tắm sông, nhìn về phía bến Bạch Đằng, lễ đài cao sừng sững đang dần hình thành.
Tôi cứ ngẩn ngơ không biết đó là gì, cho đến một ngày kia, khi một chiếc cần cẩu to dài, cẩu tượng đức Phật sơ sinh lên cao rồi đặt xuống, tôi mới biết đó là lễ đài Phật Đản.
Sáng ngày rằm năm ấy, anh em chúng tôi lại nhảy ào xuống sông vớt những cánh hoa sen bằng nhựa mà đêm trước là hoa đăng được thả tràn ngập, sáng cả mặt sông.
Cũng sáng ngày ấy, trên bầu trời, từng chiếc máy bay đầm già nhẹ nhàng bay lượn, thả từng dải băng màu ngũ sắc và những lá cờ Phật giáo bằng giấy.
Đài phát thanh Sài Gòn thì cứ sau 5 phút tin tức đầu giờ là vang lên những bài hát Phật Giáo Việt Nam (Thái Thanh hát) và A Di Đà Phật (nhóm Tiến Tơ Đồng hát).
Trên trời, dưới đất, mặt sông toàn là sắc màu, nói lên lòng hân hoan của những người con Phật hiền từ mà chỉ mới năm trước thôi, năm 1963, còn lao đao, chống chọi với bạo quyền. Bàn thờ Phật còn phải đem vào buồng ngủ mà thờ, đốt nhang lén lút. Tội nhiệp lắm ngày ấy Phật giáo Việt Nam của tôi, mỗi lần nhớ lại tôi không khỏi ngậm ngùi.
Một mùa Phật đản huy hoàng nhất, sáng đẹp nhất và mang nhiều ý nghĩa nhất mà trong suốt cả một cuộc đời phụng sự chính pháp tôi chưa hề thấy nó được tái diễn thêm một lần nào trên mảnh đất có lịch sử hai ngàn năm Phật giáo này.
Tôi luôn mang nó theo bên lòng, cất giữ kỹ lưỡng nơi một góc hoài niệm, để tự an ủi mình trên bước đường làm một người Phật tử hãy còn lắm những gập ghềnh khúc khỉu.
Dường như những góc hoài niệm ấy luôn giúp làm tăng trưởng ý chí tiến thủ của người học Phật, chấp nhận những thiệt thòi mất mát để tích lũy, làm hành trang trải nghiệm cho một bước tiến mới, thành tựu mới theo từng cấp độ phụng sự.
Tuổi thơ Oanh Vũ của tôi đi vào nẻo đạo bằng những hình ảnh và sự kiện huy hoàng nhất ngày Đản sinh đức Từ Phụ. Để từ đó, lúc nào cũng nghĩ rằng mình đang tu học và phụng sự cho một chính pháp huy hoàng như chính những hình ảnh và sụ kiện mình nhìn thấy.
Nhưng tôi lại quên đi (hay vì quá hân hoan) song song với sự hân hoan huy hoàng đó còn những hình ảnh và sự kiện tang thương của Phật giáo (1963) mà chính nhờ nó mới có ngày Phật Đản 2508 (1964) này.
Một cái giá quá đắt, làm chững lại và hao tổn không biết bao nhiêu cơ hội hoằng hóa tốt đẹp mà từ thời chấn hưng rực rỡ, chư Tôn đức xưa từng đặt nhiều kỳ vọng vào hàng hậu tấn. Những điều đó sau này chợt nghiệm ra, tôi luôn cảm thấy chua xót dường nào.
Tuy nhiên, bước lên trên nỗi buồn đầy cảm tính của tôi là cả một mặt bằng xã hội đương đại, đang chứa trong đó hình ảnh một dáng đứng Phật giáo uy nghiêm cao vọi.
Phải chăng, khi đức Bản sư Thích ca Mâu ni của chúng ta, đặt bảy bước chân thánh thiện xuống mảnh đất nhiều nhiễm trược này là cũng đồng nghĩa Ngài chấp nhận những thuận nghịch của vô thường sinh diệt, ngay cho chính cuộc đời ngài, dòng họ Thích ca và thậm chí ngay trên nền tảng giáo pháp của ngài?
Cuộc đời của một đóa sen! Đúng là như vậy.
Tuyệt vời làm sao khi nhận ra đó chính là một đóa sen cao đẹp. Tìm thấy niềm an lạc ngay trong chốn nghịch duyên. Cuộc đời của một đóa sen, của Đức Phật của mỗi chúng ta hay của chính giáo pháp giải thoát mình đang nhận làm hành trang lý tưởng.
Khi chung quanh không có những tác động trợ duyên thì chính chúng ta sẵn nguồn năng lượng an lạc và tự tại, không chấp vọng, không nhiễm trược, cũng vẫn bước đi những bước thong dong sáng đẹp.
Có giáo pháp nào còn đẹp hơn thế? Hay hơn thế? Và lịch sử tồn tại của Phật giáo đã chứng minh cho nhân loại thấy được giá trị đích thực của giáo pháp, tuy cũng trong dòng chảy của sinh diệt vô thường mà vẫn mang nặng hương vị giải thoát.
Giáo pháp ấy đang dịch chuyển dần về phương trời Tây Âu, nơi mà chỉ hơn nửa thế kỷ qua thôi, Phật giáo vẫn còn được biết đến như là một thứ tà thuật với một vị giáo chủ là Tên Thích Ca Da Đen (Đắc Lộ – “Phép Giảng tám Ngày”)!
Và rồi có lẽ không còn ý nghĩa nào quan trọng hơn khi chỉ có Phật với ngày lễ Phật Đản được Liên Hiệp Quốc chọn là ngày của Hòa Bình thế giới.
Phật giáo đã sải những bước dài từ bảy bước chân đức Phật Đản sinh khi xưa. Đó là những bước tiến của thế kỷ, từ chốn nô lệ chiếm đóng đến cao trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Thế kỷ của độc lập dân tộc. Trào lưu ấy cuốn phăng theo và làm tan chảy những định chế bạo quyền, từng thống trị song song với tham vọng thực dân cũ – mới theo sau những giáo sĩ truyền giáo, giết chết vô vàn người vô tội, bóp nát những thành tựu khoa học ngay từ trong trứng nước.
Như vậy, chúng ta thấy không chỉ riêng hoàn cảnh đất nước Việt Nam và Phật giáo Việt Nam, khi thế giới khổ đau, dân tộc điêu linh thì Phật giáo cũng ngậm ngùi chung cùng số phận.
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
Dù ở quốc độ nào cũng vậy, Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc nơi đó, sánh vai nhau gìn giữ cỏi bờ đất nước. Mặt khác, những nơi Phật giáo có mặt lại làm tăng thêm giá trị văn hóa, bổ sung cho nhau, làm nên truyền thống văn hóa dân tộc nơi ấy.
Sự hòa quyện tuyệt vời của Phật giáo là biểu lộ của tinh thần đại bi nhưng rất trí tuệ. Nhìn nhận và trả ơn nơi dung chứ mình bằng cách hòa nhập để trở thành một khối dân tộc thống nhất trước bão giông thiên tai địch họa.
Tôi vẫn luôn mang theo bên mình hình ảnh mùa Phật đản của tuổi thơ năm ấy. Nó luôn nhắc nhở tôi rằng mình đến với đạo không nhờ nhân duyên tang ma, không nhờ bạn bè đưa đẩy hay bất kỳ một sự vô tình nào đẩy đưa. Mình đến với đạo nhờ vào phúc báu sinh ra trong một gia đình tuy nghèo mà sớm biết nương tựa vào niềm tin chính pháp, làm hành trang sống trong cuộc đời. Biết đến chùa từ khi còn nằm trong bụng mẹ, lúc chập chững đã tung tăng theo Bà Ngoại đi chùa đọc kinh mỗi đêm.
Và năm nay, một mùa Phật Đản nữa lại về, nhằm đúng vào lúc tôi làm lễ Đại Tường cho thân mẫu. Càng thêm nhớ thương da diết biết bao mùa Phật Đản của tuổi thơ tôi.