Theo Phật giáo, nếu tạm chấp nhận vận mệnh có thật thì vận mệnh không do Thượng đế tạo ra. Các tôn giáo nhất thần và đa thần bao gồm: Ấn Độ giáo, Nho giáo, Nho thái giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành giáo, Chánh thống giáo, Anh giáo; Hồi giáo và các tôn giáo mới ở phương Tây và các tín ngưỡng dân gian ở châu Á, đều cho rằng tất cả mọi thứ diễn ra trong cuộc đời của chúng ta đều có kịch bản của Thượng đế.
Thượng đế cài đặt vào con người và các loài động vận một con:”chíp” vận mệnh. Con:”chíp” vận mệnh này điều khiển và chi phối tất cả mọi thứ diễn ra, nó qui định, năm tháng ngày giờ chúng ta sinh ra, lớn lên, độc thân hoặc có gia đình, có gia đình với ai, con cái ra sao chức nghiệp ngành nghề, vị thế xã hội.v.v…đều do con “chip” được thượng đế tạo ra chi phối và khống chế.
Nhận thức này được các tôn giáo nhất thần vào thời cổ đại cách đây 3 ngàn năm nhồi sọ con người, làm cho con người chấp nhận rằng mình có một số phận, để từ đó người ta an phận với số phận với mạng sống mà mình đang có. Từ đó” Bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới đặng phần thanh cao” phát biểu của đại thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều như vừa nêu, phải ánh quan niệm về định mệnh và Nho giáo mà Việt Nam, Trung Quốc nói riêng và các tôn giáo nhất thần nói chung từ xa xưa chủ trương như thế và giáo dục con người như thế.
Tiêu biểu trong các tôn giáo nhất thần về chủ nghĩa vận mệnh thì Bà-la-môn giáo của Ấn Độ và Nho giáo của Trung Quốc. Bà-la-môn giáo của Ấn Độ cho rằng Thượng đế đã phân công lao động, bằng cách sắp xếp xã hội loài người qua bốn nhóm: Nhóm vua chúa, trưởng quản được đặc quyền về chính trị, quân sự và quản trị đất nước; Giới tu sĩ Bà-la-môn trưởng quản được đặc quyền về giáo dục và tín ngưỡng tôn giáo.
Giới thương gia trưởng quản được đặc quyền về bao tử, tài chính và kinh tế xã hội; Giới cùng đinh làm osin và nô lệ cho tất cả những giai cấp trên. Với lý luận sắc bén rằng không ai sinh ra có đủ tài làm được tất cả mọi thứ trên đời mà mình mong muốn, mỗi người có một sở trường và sau đó là những sở đoản. Dĩ nhiên, cũng có những người đa hệ, đa năng, đa tài nhưng số đó không nhiều lắm. Học thuyết phân công lao động thực ra chỉ là thuyết nhồi sọ để cho giới cùng đinh chiếm tối thiểu 70% dân số phải chấp nhận sự cai trị của một thiểu số là giới chính trị, Sát đế lợi và giới tu sĩ Bà-la-môn.
Trải qua gần Năm ngàn năm tồn tại đạo Bà-la-môn, người Ấn Độ hiện nay vẫn chấp nhận rằng mình có một số phận, dẫn đến tình trạng không phấn đấu, không nỗ lực để thay đổi vận mệnh của mình. Các tôn giáo nhất thần còn lại dù sử dụng ngôn ngữ trong kinh Thánh khác nhau nhưng đều nhồi sọ cho con người cũng dậy chừng ấy vấn đề. Từ đó, người ta mới tin vào việc coi ngày giờ tốt và xấu, liên tưởng đến sự hên và xui, thành công, thất bại, hạnh phúc và khổ đau, sống thọ hay chết yểu.
Thực ra vận mệnh là không có thật, theo Phật giáo: Cuộc sống này được hình thành theo một qui luật: tương tác, tương quan, tương duy, tương thuận, không có nguyên nhân đầu tiên và do vậy, đạo Phật không chấp nhận chủ nghĩa duy tâm tức cho rằng Thượng đế và đấng sáng thế. Không chấp nhận chủ nghĩa duy vật tức cho rằng sự sống của vạn vật, trong đó có con người và mọi sự vật đều do vật chất tạo ra. Đạo Phật đưa ra một học thuyết tương tác và số phận( tạm gọi là như thế) do chính con người tạo ra chứ không có ai tạo ra sắp xếp cho chúng ta.
Thượng tọa đã đưa ra bốn câu chuyện xuất xứ từ văn học dân gian của nước ngoài phổ biến rất rộng rãi trên internet mà kết của nó giúp cho chúng ta suy nghĩ và dẫn đến kết luận của đạo Phật đã chỉ ra là: mỗi người chúng ta chính là người viết kịch bản, là đạo diễn, là chỉ huy chính, là diễn viên cho chính cuộc đời của mình, không ai khác làm công việc đó.
*Sau đây là một số hình ảnh trong buổi thuyết giảng: