Thầy Thích Đồng Châu (T) (Ảnh: Phạm Doãn Luyện)
Buổi đầu xuống buôn gặp gỡ chính quyền và bà con nhân dân, biết tâm nguyện của thầy, ai nấy vui mừng ra mặt. Dân làng đồng ý cấp ngay cho thầy 6 sào đất. Nhát cuốc bổ xuống, tóe lửa, nảy coong coong; cỏ nác um tùm, lưỡi xà gạc chạm vào, ruồi muỗi, chuột bọ, rắn rết, túa ra nhiều như rươi. Một cái chòi, một mình một bóng, ngày ngày thầy tưới mồ hôi và nhiều khi cả máu xuống mảnh đất cằn để phạt từng vạt cỏ, dặm từng mầm cây. Ngày qua ngày, mỗi khoanh đất hoang được dọn là mỗi lần thầy nhận thêm những ánh mắt ấm áp từ đồng bào. Bà con gật gù bảo nhau rằng vị sư người thấp đậm, luôn tươi cười ấy nói thật và làm thật, ông dựng chùa để ở lại với dân làng đấy. Thế là người cúng dường miếng ruộng, kẻ nhượng lại mảnh vườn, đất chùa dần thành một khu rộng hơn 10ha. Mê làm vườn từ nhỏ, đến lúc xuất gia lại gắn với những ngôi cổ tự đẹp và nên thơ của Đà Lạt, Bảo Lộc nên cái khiếu bày biện với thiên nhiên của thầy Đồng Châu mỗi ngày một đắp bồi. Giờ có đất dựng chùa, ngoài chánh điện – nơi thờ Phật, gác chuông, phòng khám bệnh v.v. là cần phải dụng đến vôi, cát, gạch, ngói, còn thì thầy toàn dựng nhà gỗ, lều tranh – bình dị như trang trại của một sơn nhân trong rừng thẳm. Những nếp nhà tranh tre nứa lá, vườn tượng, vườn đá nghệ thuật mang trên mình những bức thư pháp với nét chữ bay bướm chuyên chở vị đạo, tình đời: Hiểu biết, Thương yêu, Hãy yêu thương và tha thứ, Phật tại tâm, Thanh tịnh… ẩn hiện hài hòa trong khung cảnh nên thơ của bạt ngàn hoa thơm bướm lượn. Mái chùa chuyên chở hồn dân tộc, hiểu điều ấy nên thầy rất khéo léo kết hợp giữa văn hóa Phật giáo với văn hóa bản địa, trong khu vườn Lâm Tỳ Ni, ngoài tượng các nhân vật nguyên bản như tích nhà Phật: thái tử Tất Đạt Đa, công chúa Da Du, hoàng hậu Ma Da…, thầy đưa thêm tượng già làng, chàng trai, cô gái, mẹ địu con; bên đầu đao cong vút của mái chùa, cạnh tượng Phật là những chiếc crăngđa (chuông gió, bà con làm bằng nứa, cắm trên nương để đuổi thú rừng) v.v. và v.v.. Chùa Di Đà đẹp, hài hòa như một bản nhạc rừng!
Các cháu người dân tộc ốm gầy và đen nhẻm (Ảnh: Phạm Doãn Luyện)
Trước cửa bếp, một người phụ nữ khắc khổ từ điệu bộ cử chỉ đến cả nụ cười, đang xuýt xoa một cô, một chú tiểu. Chị là Ka Dét, 50 tuổi, lên thăm 2 con là Ka Ngữu, 16 tuổi và K’Piểm, 13 tuổi lên ở chùa từ hơn 1 năm nay. “Nó dắt em trốn lên chùa. Mình biết, lên tìm, hỏi thì nó bảo nghe các anh chị kể ở chùa được học, được chơi nên chúng đi”. Nghe mẹ tố vậy, cô chị Ka Ngữu thẹn thùng: “Nghe các anh kể chuyện ở chùa, em thích quá liền lên chùa xin thầy, thầy gật đầu bảo để xuống nói chuyện với gia đình. Nhưng, tối ấy, nhân lúc bố mẹ đang lúi húi dưới bếp, em vơ vội mấy bộ quần áo rồi kéo K’Piểm trốn đi”. K’Tiệt, 15 tuổi, là con út trong một gia đình 10 anh chị em, nhà nghèo lắm nên chú cùng 2 anh dắt nhau lên ở chùa. K’Diễm, 13 tuổi, thì là con một, nhà khá giả, bố mẹ không muốn nhưng chú quyết tâm xin lên chùa tu học từ 4 năm nay. Được thầy đặt pháp danh là Chúc Tín, chú thích lắm, rất chăm ngoan, học hành sáng dạ, lại sống gương mẫu và thân thiện nên luôn được thầy yêu, bạn mến v.v.. Mỗi người mỗi cảnh quy tụ về làm ấm cúng mái chùa đơn sơ nơi đỉnh đồi lộng gió này.
Ảnh: Vietnamandyou.net
Ảnh: Vietnamandyou.net
Ảnh: Vietnamandyou.net
Ảnh: Vietnamanhyou.net
Ảnh: Vietnamandyou.net
… 13h30, nhạc hiệu báo thức vang lên rộn rã, các cô, chú tiểu răm rắp bật dậy. Ai vào việc ấy, nhóm của K’Viện đi bổ củi ở khoảnh sân trước phòng khám bệnh, K’Thông dẫn một nhóm đi nhổ cỏ ở vườn Lâm Tỳ Ni, Ka Ngữu, K’Tiệt, K’Piểm thì xuống bếp giúp bà vãi nhặt rau, gọt khoai, thái đậu v.v..
… 16h, K’Diễm đi thỉnh chuông, K’Hoằng dẫn một nhóm lên chánh điện tụng kinh. Tiếng chuông, tiếng mõ đều đều điểm nhịp cho những tiếng tụng kinh Pháp cú bằng tiếng Châu Mạ của những giọng trẻ thơ, nghe thật yêu.
… 16h30, bắt đầu giờ chơi. Sân trước, nhóm chơi bóng đá, nhóm đánh bóng chuyền; sân sau, mấy chú buộc dây vào một viên gạch giả làm ô tô vừa kéo vừa hò hét; góc hè trước lớp học, mấy cô khúc khích chơi chuyền. Khuôn viên chùa rộn tiếng nói cười…
Ảnh: Phạm Doãn Luyện
Hiện tại, thầy Đồng Châu nuôi dưỡng 24 chú, 4 cô tiểu, từ 8 – 25 tuổi. Thầy cho biết: “Tâm nguyện của nhà chùa là nuôi dạy các em được ăn học nên người, bảo tồn và gìn giữ giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Châu Mạ. Nếu học xong THPT, cao đẳng, đại học v.v., không muốn quy y thì chúng tôi lại hoan hỉ tiễn họ về với gia đình”.
Kinh, kệ ngân vang
Đạ – nước, sa piêng – ăn cơm, ami ta pa – di đà, hiu – home – nhà…, những cái miệng xinh đang háo hức đọc theo hướng dẫn của một thầy giáo già. Thầy Nguyễn Diệp, 66 tuổi, là giảng viên Trường Trung cấp Phật học tỉnh Lâm Đồng, từ 2 năm nay, cứ chiều thứ sáu hàng tuần lại khăn gói từ Đà Lạt xuống chùa Di Đà dạy tiếng Châu Mạ và tiếng Anh cho các cô, chú địu. Hiền huynh của thầy, GS Phạm Phú Thành, 73 tuổi, giảng viên Đại học Đà Lạt, nhà nghiên cứu văn hóa, thì xuống để tổ chức những buổi nói chuyện với các cô, chú địu và đồng bào trong buôn – cứ cuối tuần là nô nức lên chùa làm công quả, khám bệnh, sinh hoạt Phật sự – về nguồn gốc, phong tục tập quán của dân tộc Châu Mạ, đạo lý, văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
–Tiếng lành đồn xa, bí thư chi bộ, già làng đại diện cho bà con nhân dân ở thôn 1, 2, 3 của xã Lộc Bắc, huyện Bảo Lâm sang tận chùa Di Đà mời thầy Đồng Châu về gây dựng giúp một niệm Phật đường. Hiện tại, trên diện tích 4ha của xã đang được thầy và các đệ tử cùng nhân dân tiến hành xây dựng. Xây xong chùa, thầy sẽ cử đệ tử xuống coi sóc, hướng dẫn bà con địa phương tu tập rồi sau đó nhường lại cho nhân dân bản địa quản lý. -Theo tập quán, đồng bào dân tộc thường địu con nhỏ trên lưng, trước ngực rồi tha lôi theo suốt ngày dầm mưa dãi nắng lên nương, xuống suối, vào rừng… Thương tụi nhỏ, từ ngày 8-8, thầy xây dựng một khu nhà trẻ trong khuôn viên chùa, mướn 3 cô giáo về đứng lớp, chăm lo các cháu nhỏ từng bữa ăn, giấc ngủ để cha mẹ chúng yên tâm lao động mà các mầm non cũng được chăm sóc, nuôi dạy chu đáo hơn. Hiện nhà trẻ đã rộn tiếng khóc, cười của 30 cháu. – Đại đức Thích Đồng Châu sinh năm 1963, quy y cửa Phật từ 22 năm nay, là thành viên Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Lâm Đồng, phụ trách đồng bào dân tộc thiểu số. Không chỉ là nơi hoạt động tín ngưỡng, chùa Di Đà còn là nơi sinh hoạt cộng đồng của bà con trong buôn. |
Theo: Vietnamandyou.net