Trang chủ Tin tức TP.HCM: Khai mạc chiêm bái tượng ngọc Phật Hoàng Trần Nhân...

TP.HCM: Khai mạc chiêm bái tượng ngọc Phật Hoàng Trần Nhân Tông tại QATV

63

Quang lâm chứng minh và tham dự gồm có:

Hòa Thượng: Thích Viên Giác – Ủy viên thường trực HDCM.GHPGVN, Hòa Thượng: Thích Thiện Tánh – Trưởng ban kiểm soát TW.Phó ban thường trực BTS.THPG.TP.HCM, Hòa Thượng: Thích Tịnh Hạnh – Phó ban kiêm Trưởng ban kinh tế tài chính.GHPGVN.TP.HCM, Hòa Thượng: Thích Như Tín – Phó ban kiêm trưởng ban kiểm soát.GHPGVN.TP.HCM, Hòa Thượng: Thích Thiện Chiếu – Phó trưởng ban từ thiện xã hội TW.GHPGVN, Hòa Thượng: Thích Huệ Minh – Trưởng ban trị sự GHPGVN.quận Phú Nhuận, Hòa Thượng: Thích Minh Hiền – Trưởng ban trị sự GHPGVN.Quận 3, Ni Trưởng: Thích Nữ Như Giác – Viện chủ Quan Âm Tu Viện.

Về phía chính quyền các cấp và sở tại gồn có: Ông: Huỳnh Ngọc Thành – Phó giám đốc sở nội vụ – Trưởng ban tôn giáo TP.HCM, Bà: Nguyễn Thị Hồng Thắm – Trưởng phòng sở nội vụ.Quận Phú Nhuận, Ông: Võ Văn Nhơn – Phó chủ tịch thường trực MTTQVN.Quận Phú Nhuận, Ông: Huỳnh Văn Thăng – Phó trưởng phòng sở nội vụ.Quận Phú Nhuận, Ông: Phan Huy Bình – Phó văn phòng UBND.Quận Phú Nhuận, Ông: Nguyễn Văn Tám – Phó trưởng phòng hội Cựu chiến binh.Quận Phú Nhuận, Ông: Nguyễn Văn Bình – Trưởng ban hội Người cao tuổi.Quận Phú Nhuận. Ngoài ra còn có sự hiện diện của chư tôn đức Tăng Ni các trú xứ và đông đảo qúy Phật tử gần xa đến tham dự chiêm bái.

Theo thông tin từ QATV, nhân dịp tổ chức đàn tràng Quan Âm Tu Viện cầu nguyện Quốc Thái Dân An, QATV trang nghiêm cung thỉnh tượng ngọc Phật Hoàng Trần Nhân Tông để Tăng Ni Phật tử chiêm ngưỡng và tưởng nhớ tri ân thành kính cũng như tôn vinh bậc Tổ sư tài đức siêu Việt đã làm rạng rỡ trang sử hào hùng của dân tộc, cũng như để lại lịch sử vẻ vang cho Đạo Phật Việt Nam.

Lễ khai mạc bắt đầu do Chư tôn đức tăng ni phật tử và qúy quan khách khởi thân niệm Phật cầu gia bị, Hòa Thượng Thích Huệ Minh đọc diễn văn khai mạc chiêm bái Tượng Ngọc Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Thượng tọa Thích Minh Nhật đọc tiểu sử Phật Hoàng Trần Như Tông như sau:

Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh. Thân hình Ngài có những đặc điểm khác thường, nhất là có màu vàng, nên được vua cha đặt cho biệt hiệu là Phật kim.

Lớn lên, năm 16 tuổi (1274), Ngài được lập làm Đông cung Thái tử và cùng năm Ngài kết duyên cùng công chúa Quyên Thánh, trưởng nữ Hưng Đạo Đại Vương. Vua Trần Thánh Tông đã mời các bậc lão thông Nho giáo, Tứ thư, Ngũ kinh để dạy cho Ngài như Lê Phụ Trần, Nguyễn Thánh Huấn, Nguyễn Sĩ Cố v.v… tất cả đều hết lòng dạy dỗ. Chính Vua cha cũng đã soạn Di Hậu Lục để dạy dỗ cho Thái tử cách xử thế, chuẩn bị nối nghiệp sau này.

Về Phật pháp, Ngài học đạo với Tuệ Trung Thượng Sĩ, được Thượng Sĩ hết lòng hướng dẫn và trao đổi những yếu nghĩa Thiền tông. Ngài thường tới lui chùa Tư Phúc trong kinh thành để tụng kinh, tọa thiền, lễ bái Tam bảo.

Năm 21 tuổi (1279), Ngài được Trần Thánh Tông truyền ngôi, trị vì thiên hạ Đại Việt, lấy đức trị vì, dân chúng an cư lạc nghiệp, lấy niên hiệu là Thiệu Bảo.

Trước thảm họa ngoại xâm, quân Nguyên – Mông chuẩn bị xâm chiếm nước Nam. Năm 1282, Ngài chủ trì Hội nghị Bình Than để lấy ý kiến toàn dân trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Năm 1284, trước khi cuộc chiến tranh diễn ra, Ngài chủ trì Hội nghị Diên Hồng, lấy ý kiến các vị Bô lão, những người đứng đầu các Bộ lạc. Toàn thể hội nghị già trẻ, gái trai đều một lòng tung hô quyết chiến.

Năm 1285, với tinh thần bảo vệ dân tộc, Tổ quốc của toàn dân, Ngài đã lãnh đạo và chiến thắng cuộc xâm lăng Nguyên – Mông lần thứ nhất.

Quân Nguyên – Mông định lập ý đồ bành trướng Phương Nam, tiến chiếm Chiêm Thành, làm bàn đạp thôn tính Đại Việt, Trần Nhân Tông lại một lần nữa lãnh đạo cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, với sự quyết tâm chiến thắng của toàn quân, toàn dân, Ngài đã chiến thắng quân Nguyên – Mông lần thứ hai năm 1288. Cảm hứng trước sự chiến thắng của dân tộc, Ngài đã làm hai câu thơ lưu lại:

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã

Sơn hà thiên cổ điện kim âu

(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá

Non sông muôn thuở vững âu vàng)

Sau khi đất nước thanh bình, dân chúng an cư lạc nghiệp, Ngài đã củng cố triều đình, phủ dụ, đoàn kết toàn dân, xây dựng và phát triển đất nước trong thời hậu chiến. Với mục đích chủ hòa, Ngài đã bỏ qua những lỗi lầm đã có của quần thần cũng như thân tộc.

Năm 41 tuổi (1293), Ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông lên làm Thái Thượng Hoàng.

Năm 1294, Ngài cầm quân sang chinh phạt Ai Lao, giữ yên bờ cõi và làm cho nước Triệu Voi tiếp tục thần phục Đại Việt.

Sau khi chinh phạt Ai Lao, Ngài trở về Hành cung Vũ Lâm – Ninh Bình, cầu Quốc sư Huệ Tuệ làm lễ Xuất gia, tập sự tu hành tại đây một thời gian.

Năm 1299. Ngài quyết tâm trở lại thăm Kinh sư lần cuối, rồi đi thẳng lên núi Yên Tử – Quảng Ninnh quyết chí tu hành, tham thiền nhập định, lấy tên là “Hương Vân Đại Đầu Đà” và độ Đồng Kiên Cương làm đệ tử và ban pháp hiệu là Pháp Loa.

Năm 1301, Ngài hạ san, đi thăm hữu nghị đất nước Chiêm Thành và nghiên cứu về tôn giáo, tạo lập mối quan hệ hợp tác, hòa bình, hữu nghị với các nước lân bang. Trở về chùa Phổ Minh, phủ Thiên Trường giảng kinh, thuyết pháp, mở Hội đại thí vô lượng cho nhân dân.

Năm 1304, Ngài chống gậy trúc dạo đi khắp nước Đại Việt, khuyến khích muôn dân giữ năm giới, tu hành Thập thiện, dẹp bỏ những nơi thờ cúng không đúng Chính pháp, loại bỏ những điều mê tín dị đoan v.v… Ngài đến Bố Chánh – Quảng Bình lập am Tri Kiến và lưu lại đây một thời gian. Sau đó, được Vua Trần Anh Tông thỉnh vào nội cung để truyền giới Bồ tát cho Bá quan văn võ, quần thần.

Sau chuyến thăm hữu nghị Chiêm Thành năm 1301, Ngài có hứa đính hôn Công chúa Huyền Trân cho Vua Chiêm là Chế Mân. Năm 1305, Vua Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và phái đoàn ngoại giao mang vàng, bạc… sính lễ cầu hôn. Đến năm 1306, Ngài đứng ra chứng minh hôn lễ giữa Công chúa Huyền Trân và Chế Mân – Vua Chiêm Thành.

Trước thành qủa ngoại giao hôn nhân ấy, Vua Chiêm đã dâng hai quận Châu Ô, Châu Rí cho Đại Việt làm qùa sính lễ. Đây chính là điều kiện giúp cho Đại Việt mở rộng bờ cõi về phương Nam là Thuận Hóa (Huế).

Năm 1307, Ngài truyền Y Bát lại cho Tôn giả Pháp Loa, lên làm Sơ Tổ Trúc Lâm và Tôn giả Pháp Loa là nhị tổ của Thiền phái Trúc Lâm. Trong thời gian đó, Ngài thường lui tới chùa Báo Ân Siêu Loại, Sùng Nghiêm Hải Dương, Vĩnh Nghiêm Lạng Giang, chùa Từ Lâm, chùa Quỳnh Lâm Đông Triều để giảng kinh, thuyết pháp và chứng minh các Lễ hội…

Sau khi truyền Y Bát cho Tôn giả Pháp Loa, Ngài tập trung biên soạn Kinh sách và Ngữ lục. Qua đó, Ngài đã để lại cho đàn hậu học một số tài liệu vô cùng qúy báu như: Trần Nhân Tôn thi tập, Đại Hương Hải Ấn thi tập, Tăng Già Toái Sự, Thạch Thất Mị Ngữ, Trung hưng Thực Lục, Truyền Đăng Lục v.v….

Trước khi nhập diệt, Ngài đã để lại bài kệ Pháp Thân Thường Trụ qua sự trả lời cho thị giả hầu cận bên Ngài là Bảo Sát:

“Tất cả pháp không sanh

Tất cả pháp không diệt

Ai hiểu được như vầy

Thì chư Phật hiện tiền

Nào có đến có đi”.

“Nhất thiết pháp bất sanh.

Nhất thiết pháp bất diệt.

Nhược năng như thị giải.

Chư Phật thường tại tiền.

Hà khứ lai chi hữu”.

Theo sử cũ, Ngài xả báo an tường, thâu thần thị tịch ngày 01/11/Mậu Thân (1308). Thọ thế 51 năm tại am Ngọa Vân – Đông Triều – Quảng Ninh. Vua Trần Anh Tông cung thỉnh nhục thân Ngài về kinh đô Thăng Long cử hành Quốc tang trong thời gian hai tuần. Sau đó, Vua quan, quần thần, văn võ bá quan, đệ tử Pháp Loa, Bảo Sát và chúng Tăng trong nước cử hành Lễ Trà tì.

Sau khi thu nhặt Xá lợi, Xá lợi được chia làm hai phần, một phần xây tháp thờ ở Lăng Qúy Đức phủ Long Hưng – Thái Bình; một phần xây tháp tôn thờ tại chùa Vân Yên – Yên Tử, Quảng Ninh, lấy hiệu là Huệ Quang Kim Tháp, dâng Thánh hiệu: Đại Thánh Trần Triều, Trúc Lâm Đầu Đà, Tịnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Phật Tổ”.

Áo mão kim đai theo dòng nước

Chuông từ mõ trúc vọng chân không

Phật pháp vô biên tâm vô lượng

Bồ đề thơm ngát tỏa mười phương.

–         Phật Hoàng Trần Nhân Tông –

 

Sau phần dâng hoa cúng dường, HT.Thích Như Tín ban đạo từ, chư tôn đức giáo phẩm và qúy quan khách đại diện ban nghành các cấp niệm hương và cầu nguyện cho buổi lễ khai mạc cũng như nguyện cầu Quốc Thái Dân An.

Đại lao Ni Trưởng Thích Nữ Như Giác, Sư Cô Thích Nữ Huệ Đức đọc lời cảm tạ ghi niệm ân đức đến chư tôn đức Tăng Ni, các cấp chính quyền, phật tử gần xa, toàn thể công nhân viên công ty Vạn Phúc An đã tạo nên thắng duyên tượng ngọc Phật Hoàng Trần Nhân Tông để Phật tử gần xa chiêm bái nói riêng, và niềm tự hào trang sử Phật Giáo Việt Nam nói chung.

Thời gian chiêm bái bắt đầu từng ngày 24/07 – 28/07/2013 (17/06 – 21/06 Qúy Tị).