Phóng sinh là tập quán vốn có từ nhà Phật. Người con Phật thể hiện lòng từ bi đối với các sinh động vật. Trong những lễ lớn, rằm của Phật giáo, chim cá được phóng thích thường xuyên, cũng từ đó mà nhiều vấn đề được đặt ra và những tệ nạn tiêu cực phát sanh.
Ngày 25/2/2011 tức ngày 23/01/Tân Mão, cơ sở Từ Thiện chùa Kỳ Quang 2 ở quận 12 vừa thiết lễ kỳ an đầu năm, an vị tôn tượng Di Lạc và “phóng sinh quy hướng Tịnh độ” cho các loài thủy tộc.
Khuôn viên khá rộng, nằm dọc con sông lớn An Phú Đông, nơi đây nuôi và hướng nghiệp cho hàng trăm trẻ khiếm thị, do ĐĐ Quang Hạnh đảm trách. Hàng tháng, Phật tử chùa Vạn Đức Thủ Đức và một số nơi đem cá đến đây phóng sinh. Thỉnh thoảng vẫn có những cá nhân đến để thả chim, cá về với môi trường tự nhiên của chúng..
Tại cơ sở xã hội nuôi dạy trẻ khuyết tật Kỳ Quang 2, quận 12, treo tấm banderole lớn: Lễ Hội phóng sinh, quy hướng Tịnh độ. Từ trước nay, phóng sinh thì nhiều và thường, nhưng ít thấy tấm biều ngữ mang nội dung như vậy.
Trước khi làm lễ phóng sinh, Thượng Tọa T. Minh Thọ đã giảng ý nghĩa phóng sinh hơn 15 phút.
Tham dự nghi thức hành chánh cũng có nghệ sĩ nhân dân ưu tú Bạch Tuyết, ĐĐ T. Lệ Thọ và một số chư Tăng các nơi. Một tôn tượng Di Lạc lộ thiên, hoàn thành trong thời gian không quá một tháng chuẩn bị đón tết truyền thống, hướng ra mặt sông. Cảnh trí được sắp xếp thật u nhàn trang nhã.
Người tham dự khá đông, nhưng mấy ai hiều đúng nghĩa hai chữ phóng sinh. Quy hướng Tịnh Độ mang hai ý, một là loài cầm thú được phóng sinh cầu cho chúng quay về với cõi Tịnh, cõi giải thoát.
Hai, người làm công tác phóng sinh nguyện chuyển đổi phước báu nầy hướng về cõi Tịnh, giải thoát. Cõi Tịnh, giải thoát không chỉ mang hình ảnh của một cảnh giới, cũng có thể là một tâm thái. Cổ nhân quan niệm phóng sinh: phóng chư phiền não chi tâm, sinh chư trí tuệ chi ý.
Như vậy phóng sinh không chỉ giới hạn trong việc trả tự do cho các loài động vật mà phải giải phóng những uế trược phiền não ràng buộc trong Tâm để phát sinh trí tuệ giải thoát cho chính mình. Nếu song hành cả hai cách phong sinh như thế thì việc phóng sinh mới có ý nghĩa và có kết quả như ý.
Một lễ phóng sinh đầu năm của cơ sở xã hội Kỳ Quang 2 được yểm trợ bởi an ninh địa phương và tham dự của quần chúng, tạo thêm bầu không khí tươi mát vốn có của giòng sông An Phú Đông, để tất cả đồng Quy Hướng tịnh Độ trong cuộc sống.
Một số người phản đối việc phóng sinh, họ bảo: làm như thế tạo thêm những kẻ săn bắt; mình thả, họ bắt, con vật biến thành vật hy sinh cho việc mua bán và bị giam cầm thường xuyên; một số sinh vật bị giam cầm đã chết hoặc suy dinh dưỡng, lúc thả ra, không đủ sức bay hoặc bơi lội… Cũng có một số người quan niệm: Thú vật là dạng chúng sinh mang nghiệp nặng, hãy để cho chúng trả nghiệp, đừng gánh lấy nghiệp của chúng … Những người ngoại đạo lại bảo: Sinh vật được Thượng đế tạo ra để nuôi dưỡng loài người, hà cớ lại đem tiền ra mua, thả chúng thật phí phạm. Nếu tất cả đều như thế thì các động vật sẽ phát triển nhanh, chiếm hết không gian cuộc sống và ảnh hưởng hoa màu của con người…. Tóm lại, rất nhiều lý do để phản đối hành động phát khởi do tình thương của người con Phật mà ra. Việc thể hiện lòng từ bi đối với mọi loài là việc tốt. Chuyện kẻ săn bắt lợi dụng tình thương đó mà phát triển nghề nghiệp là việc của họ. Nếu thấy một người đói khổ, bảo rằng đừng giúp đỡ vì họ là kẻ ăn cắp, giúp rồi họ vẫn tiếp tục đói, hoặc do nghiệp của họ phải lãnh thì cả xã hội, không ai giúp ai, mạnh ai nấy sống, tinh thần từ bi và hạnh bố thí của nhà Phật áp dụng vào đâu? Cổ nhân có nói: Kiến nghĩa bất vi, phi dõng giả, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng . Trước việc khổ đau của kẻ khác, chúng ta có bổn phận giúp đỡ, giải thóat khổ đau trong khả năng, nguyên nhân nào và hậu quả thế nào là do những yếu tố phụ thuộc khác; đừng vì những hệ lụy liên đới mà ngăn chận việc làm đúng, thể hiện lòng từ, là sai. Người con Phật có trí tuệ khi hành động và thực hiện lời dạy của đấng cha lành. Nếu do nghiệp ác của chúng sinh mà ta sợ lãnh nghiệp, thì Đức Thế tôn đã không bỏ ngôi báu tìm phương giải thoát cho chúng ta. Lý luận bảo rằng mọi sinh vật đó là vật nuôi dưỡng chúng ta do Thượng đế tạo ra, là lối biện luận của kẻ tham ăn và lòng hiếu sát. Mọi sinh động vật đều có giá trị sinh tồn bình đẳng, bởi chúng đều có cảm thọ vui buồn, sướng khổ như nhau, đều tham sống sợ chết như chúng ta. Quy luật cân bằng sinh thái của tinh cầu, không cho phép các động vật, dù nguy hiểm như rắn, hổ và những thú dữ khác phát triển hơn bình thường. Hàng tỷ năm hình thành sự sống, loài người có mặt sau cùng, thế mà các thú hoang có bao giờ phát triển quá độ? Trong cõi riêng tư của gia đình, con người thích nuôi thú và nhất là thú hoang để làm cảnh, tại sao trong đời sống, chúng ta không cho phép chúng tồn tại đồng thời với cuộc sống của chúng ta một cách hài hòa, thân thiện? Dù chúng ta có phóng sinh hay không, từ lâu vẫn tồn tại kẻ săn bắt và các thú hoang vẫn bị giam cầm, tại sao chúng ta không đốt bớt một giai đoạn giam cầm những động vật đáng thuơng đó, cho dù chúng hưởng được một tự do trong khoảnh khắc ngắn ngủi? Những tín đồ ảnh hưởng giáo lý Từ bi có khác với những người bình thường, tại sao chúng ta lại nghe theo những ngăn cản mà thoái tâm từ, vốn dĩ đó là một trong những mắt xích trưởng dưỡng đạo tâm của chúng ta. Dĩ nhiên bât cứ lòng tốt nào cũng bị lợi dụng, nhưng đừng vì bị lợi dụng mà chúng ta bỏ lỡ cơ hội cứu giúp một sinh mạng. Một tù nhân thèm khát tự do như thế nào thì các chú chim trong lồng cũng ao ước một chân trời tự do bay lượn như thế, hãy cho chúng một tự do trong khả năng của chúng ta. Luật nhân quả bảo rằng Nhân nào Quả đó, thế thì phóng sinh ắt phải có quả báo tốt đối với người phóng sinh! Biết như vậy, chúng ta không nên do dự khi có điều kiện làm điều thiện. Rất nhiều lần cá được thả xuống thì người dân chèo xuồng bơi dọc bờ sông chích điện đem lên lại, và chim bị cắt cánh, không bay được nên bị bắt lại. Đó là một thảm kịch lẩn quẩn không có lối thoát. Những người dân sống trên sinh mạng của muông thú và lạm dụng lòng từ của con Phật, họ không ý thức luật nhân quả và đồng cảm nỗi đau của một sinh vật, họ hành động một cách tự nhiên của luật sinh tồn trong cỏi vô minh, người con Phật có lòng từ đối với các sinh vật đó, cũng phải có lòng bi đối với những người dân như vậy. Giải quyết một vế thì vế bên kia cũng phải phát triển tương xứng, vì thế, chúng ta phải nghĩ đến cách giải quyết cho người đánh bắt. Với số lượng chim trời cá nước phóng sinh hàng chục triệu. Có những cuộc phóng sinh trên 26 tấn cá ở Cà Mau những năm trước, tại sao chúng ta không trích một phần tương đương thu nhập một ngày của họ để giúp họ và nhờ họ cùng chúng ta phóng sinh, tránh được đánh bắt trở lại ngay lúc đó, giúp họ có cơ hội hành thiện. Nếu song hành với việc phóng sinh là giúp đỡ đồng bào nghèo trong vùng phóng sinh, dù là tượng trưng, cũng tạo cho họ một ý thức cộng tác từ thiện, khuyến nhủ cho họ hiểu lợi ích việc phóng sinh, thế nào cũng có người cảm nhận được từ trường bi mẫn của chúng ta. Giúp kẻ khó và phóng sinh đều có giá trị như nhau. Người Phật tử thường hành thiện theo thói quen và nặng về hình thức, nếu chịu khó suy xét kỷ thì việc bố thí, phóng sinh, hành thiện sẽ đạt kết quả sâu sắc hơn. Phóng sinh không có nghĩa phải đợi chú nguyện làm lễ, một giây phút chờ đợi là kéo dài thêm nỗi đau khổ của sinh loại. Chúng có thể được phóng sinh bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào, không nhất thiết phải có nghi lễ tôn giáo. Cho dù việc phóng sinh có những khó khăn, chúng ta tìm cách giải quyết và giúp đỡ những kẻ lạm dụng việc phóng sinh song song với việc giúp những sinh vật bé nhỏ đó,tạo thêm niềm vui cho người và vật. Không nên chùn bước trước những lời bàn ra mà thối tâm từ bi. Đồng thời không xem việc phóng sinh là làm phước mà còn là phương cách tiến tu đạo nghiệp tuệ giác, giải thoát. |