May mắn trong thời gian công tác trong Ban Văn hoá Trung ương Giáo hội, anh em tôi thỉnh thoảng được nghe Hoà thượng Thích Trung Hậu, Trưởng Ban Văn hóa TW, cũng là trưởng pháp tử của Ôn kể về Ôn, kể về những công việc thường ngày liên quan đến kinh sách mà Ôn đã và đang dịch.
Cứ mỗi quyển kinh, sách của Ôn mới in hay tái bản, gần như anh em chúng tôi đều là những người đầu tiên được Hoà thượng Thích Trung Hậu gửi tặng. Đó là tất cả những gì vinh dự nhất mà anh em tôi từng được đón nhận cho đến hôm nay.
Ôn có sức nhiếp phục và thu hút đặc biệt, nên những ai dù chỉ một lần được diện kiến đảnh lễ Ôn đều xem đó là một phước duyên, may mắn lớn trong đời, anh em tôi cũng không ngoại lệ.
Cũng như bao người khác, nghĩ về phong trào Phật giáo 1963, nghĩ về ngọn lửa Bồ tát Thích Quảng Đức, không thể không nghĩ tới Ôn như một huyền thoại trong những huyền thoại, khi một thời khắc nào đó lịch sử đặc biệt cần đến.
Được gần gũi cộng tác với những trí thức Phật tử Huế như anh Cao Huy Thuần, chị Thái Kim Lan, anh Trần Đình Sơn, anh Nguyễn Tường Bách…, chúng tôi càng nhận thấy ở họ có một đức tin kiên cố đối với Ôn.
Có lẽ sự kính ngưỡng tri thức Phật học uyên bác của Ôn chỉ là một phần, trong họ Ôn như một nguồn trầm tích sâu lắng, chỉ cần Ôn ngồi vững đó trong im lặng cũng đủ lực để phù nghiêng đỡ lệch cho mọi chống chếnh, chông chênh trong thời cuộc vốn bất an này.
Cá nhân tôi cảm nhận mức độ tôn kính mà tăng ni, trí thức Phật tử Huế dành cho Ôn đặc biệt hiếm thấy, gần như không nơi nào ở Việt Nam xuất hiện thêm một sự tôn kính đồng nhất lạ kỳ đến như vậy.
Chúng tôi đọc gần như mọi loại sách báo viết về Ôn, phản đối thoá mạ có, ca tụng có, nhưng Ôn vẫn hiện diện như một ẩn số lịch sử, thử thách mọi luận bàn, và gần như không luận bàn nào chạm đến được sự im lặng hùng tráng kia từ nơi Ôn.
Và chúng tôi cũng là những người trong hàng vạn người mong muốn nghe được Ôn kể lại những gì đã trải qua trong cuộc đời mình, những gì là biến cố, là pháp nạn của Phật giáo…
Có lẽ, nhiều người muốn nghe nhiều hơn nữa những sự thật từ chứng nhân lịch sử, nhưng để làm gì khi tâm thế thời đại vẫn không thể hàn gắn nổi những thù hận trong lòng người, giữa những thăng trầm của thời cuộc, giữa hư vọng kẻ thắng người thua.
Tự truyện Trí Quang đã xuất hiện như thế này: “Truyện của tôi không đáng gì mà phải ghi. Chỉ vì truyện ấy, hơn vài thập kỷ trước thập kỷ 2530 (1975-1985), có liên quan đến Phật giáo Việt Nam lại bị hư cấu truyện và phim sai quá nên phải ghi. Nhưng ghi như dưới đây thì chỉ là có còn hơn không mà thôi”.
Và cách Ôn tự kết luận về cuộc đời mình như sau: “Rốt cuộc, tôi không biết gì, không có ý định gì cả, nên cuộc đời tôi “không vẫn hoàn không”, không có gì đáng nhớ, đáng nói.
Ngay như tự truyện này, vì không thể không có nên phải viết và phải in, mà thôi. “Không vẫn hoàn không” là Phật cho, tôi mới được như vậy”.
Kết luận kia thấp thoáng bóng dáng ngôn từ của những Khuông Việt, Vạn Hạnh, Mãn Giác, Từ Đạo Hạnh và nhiều hơn thế…
Lịch sử Phật giáo dù thịnh suy, vẫn sẽ tiếp tục sứ mệnh của mình, không thể khác được…
Kính lễ Giác linh Ôn, nơi pháp thân thường tại!