Trang chủ Văn học Tinh thần nguyên thủy của thiền sư Huyền Quang qua Vịnh vân...

Tinh thần nguyên thủy của thiền sư Huyền Quang qua Vịnh vân yên tử phú

273

Tam tổ Huyền Quang thế danh là Lý Đạo Tái, (1254 – 1334) quê ở làng Vạn Tải, lộ Bắc Giang (đời Lê đổi lại là làng Vạn Tư, huyện Gia Định), thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Theo sách Tam tổ thực lục ghi chép tổ tiên chín đời của Huyền Quang tên Lý Ôn Hòa từng làm quan hành kiểm dưới triều vua Lý Thần Tông, ông nội là Chuyển vận xứ thời Trần, cha là Lý Tuệ Tổ có công chống giặc nên được bổ làm quan, nhưng ông từ chối không làm mà xin về với ruộng vườn quê nhà.

Xuất thân từ một làng quê có nền văn hóa, lâu đời (Bắc Ninh) lại được sinh ra trong gia đình có truyền thống thi thư, nên từ nhỏ Tam tổ Huyền Quang đã có khiếu văn chương, lại là người thông minh ưu tú học đến đâu thông làu đến đó.

Niên hiệu Bảo Phù thứ hai (1274), đời vua Trần Thánh Tông, lúc này tài thơ văn của Tam tổ Huyền Quang đã nổi danh khắp nơi, Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú hai nhà Nho nổi danh thời bây giờ cũng phải khâm phục tài thơ văn của Huyền Quang “ý tinh tế cao siêu, lời bay bướm phóng khoán”, “năm 20 tuổi thi Hương, năm sau đậu luôn thủ khoa kỳ thi Hội”, sau kỳ thi hội ông tiếp tục đỗ Trạng nguyên, được bổ vào làm việc trong viện Hàn lâm.

Trong thời gian làm quan ở viện Hàn Lâm, Tam tổ Huyền Quang đã từng được vua chỉ định trọng trách tiếp đón xứ thần phương Bắc, với học vấn uyên bác, lại có tài văn chương ăn nói lưu loát khiến xứ thần phương Bắc nể phục.

Sách Tam tổ thực lục của hòa thượng Phước Sơn dịch có ghi lại rằng: Huyền Quang từng tháp tùng vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm nghe thiền Sư Pháp Loa giảng kinh, cảm mến Phật pháp đã lâu, nay như được khơi dậy ý chí xuất trần.

Ông cảm thán mà thốt rằng: “Làm quan lên Bồng Đảo, đắt đạo đến Phổ Đà, trên cõi nhân gian là tiên, cảnh giới Tây phương là Phật. Phú quý vinh hoa nào khác lá vàng màu thu, mây trắng mùa hạ, há nên lưu luyến mãi”. Nhân đó, tổ nhiều lần dâng biểu xin từ quan xuất gia tu đạo.

Theo Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang cho rằng: vào năm (1305) lúc này Tam tổ đã 51 tuổi mới xuất gia và thờ thiền sư Bão Phác làm thầy. Trong một pháp hội, thiền sư Bão Phác khi đến tham dự có dẫn theo Huyền Quang, Điều ngự Trần Nhân Tông gặp lại Huyền Quang thì vô cùng vui mừng. Bởi vì, đức Điều ngự biết Huyền Quang trước khi đến với Phật pháp từng trải qua cửa Khổng sân Trình, là viên ngọc quý nổi tiếng trong giới văn nhân thời bây giờ.

Điều ngự liền đề nghị thiền sư Bão Phác cho Huyền Quang theo hầu bên mình, với học vấn uyên bác tài văn chương xuất chúng Huyền Quang được Điều ngự tin tưởng giao cho nhiệm vụ biên soạn những sách thực dụng để lưu hành rộng rãi khắp nơi như “Chư Phẩm Kinh, Công Văn Tập, Thích Khoa Giáo”.

Đức Sơ tổ Điều ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đã rất hài lòng với công việc sáng tác của Huyền Quang, “khi đọc xong bản thảo Thích Khoa Giáo, vua ngự vút phê như sau: Phàm sách đã qua tay Huyền Quang biên soạn hiệu khảo rồi thì không thể thêm hay bớt một chữ nào nữa”[17], chỉ tiếc là những tác phẩm này theo dòng thời gian biến thiên của lịch sử đến nay không còn tồn tại nữa.

Niên hiệu Hưng Long thứ 17 (1309), đức Điều ngự giao phó núi Yên tử cho Huyền Quang lãnh đạo,“Sư vâng lệnh trụ trì chùa Vân Yên trên núi Yên Tử. Do sư đa văn bác học, tinh thâm đạo lý, nên học đồ bốn phương nghe danh tụ hội về tham vấn thường xuyên không dưới ngàn người”.

Cuối năm 1308 Điều ngự viên tịch, Huyền Quang tiếp tục phò tá Nhị tổ Pháp Loa đưa thiền phái Trúc Lâm ngày càng phát triển rộng ra khắp cả nước Đại Việt. Theo Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận nói rằng: “Năm 1330, Nhị tổ Pháp Loa viên tịch, thọ 47 tuổi”[19], Huyền Quang nối tiếp ngọn đèn làm đệ tam tổ, vị tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm ở tuổi 77.

Sau khi nhận trọng trách lãnh đạo thiền phái Trúc Lâm, Tam tổ Huyền Quang không về ở chùa Quỳnh Lâm hay chùa Báo Ân, như các đời tổ sư trước đã từng cư trú. Tam tổ lúc này tuổi cao nên có lẽ ngài không thích sống những nơi đô thị huyên náo ồn ào, lựa chọn về với núi rừng tĩnh lặng, sống bình dị trong những năm tháng còn lại của mình, “Huyền Quang sau khi giao phận sự cho An Tâm đã về núi Thanh Mai ở sáu năm, rồi dời sang Côn Sơn ở chùa Tư Phúc, tháng riêng năm 1334 Tam tổ tịch tại đây”.

Về sự nghiệp sáng tác văn chương ngài có hơn cả nghìn bài, nhưng theo sự biến thiên thăng trầm của lịch sử qua các thời kỳ, đến nay chỉ còn xót lại 25 bài, được Lê quý Đôn chép trong Toàn Việt thi lục, Bùi Huy Bích chép trong Hoàng Việt thi tuyển. Nổi bậc nhất là tác phẩm phú Nôm, (Vịnh vân yên tự phú), được xem là một kiệt tác nghệ thuật, lời phú bay bổng lãng mạn mà lại chứa đựng tư tưởng thiền sâu sắc.

Cùng với bài Cư trần lạc đạo phú và bài Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Phật Hoàng Trần Nhân Tông, đây là ba tác phẩm văn học thiền bằng chữ Nôm xưa nhất hiện còn lại trong văn học trung đại Việt Nam.

Tác phẩm Vịnh vân yên tự phú của Tam tổ Huyền Quang được sáng tác khi ngài đang cư trú tại chùa Vân yên. Bài phú được mệnh danh là một trong những bài phú thiền thuộc vào loại đẹp nhất của văn chữ Nôm thời Trần. Nếu Cư trần lạc đạo phú chủ yếu giảng giải về con đường tu đạo, nó có sức ảnh hưởng rất lớn vì đã từng chi phối đến đời sống của hàng triệu triệu người Phật tử Đại Việt.

Bên cạnh đó, Vịnh Vân yên tự phú của Tam tổ Huyền Quang là một bài phú gián tiếp trình bày giáo lý thiền tông qua việc miêu tả, ca ngợi nét thanh tú diễm lệ của thiên nhiên, đất nước và con người tu hành.

Bài phú nổi bật lên hình ảnh thiền sư ẩn sĩ với tinh thần tự tại phóng khoáng, tiêu dao thoát tục, cảnh Phật, cảnh tiên, chất đạo chất đời hòa quyện vào nhau một cách rất chân thật và gần gũi. Tư tưởng thiền của Tam tổ Huyền Quang được biểu hiện qua hình ảnh thế giới thiên nhiên nơi núi rừng Vân yên.

Tại đây, ngài Phật hóa cõi thiên nhiên non nước hữu tình, Vân yên dưới nhãn quan của Tam tổ trở thành cảnh giới thiền thiên vằng vặc trăng soi sáng. Bằng lời phú bay bổng chất thơ mượt mà, hình ảnh con người và thiên nhiên hòa quyện tạo thành một bức tranh thiền, vừa có động vừa có tĩnh, vừa hữu tình lại vờ như vô tình.

Khác với tư tưởng thiền của đức Điều ngự, tư tưởng thiền của Tam tổ phảng phất trong bài phú vừa mang vẻ đẹp siêu thoát tự tại thanh cao, lại vừa hàm chứa sức sống yêu đời, phóng khoáng của kẻ sĩ nơi trần thế.

Trong ba vị tổ thiền phái Trúc Lâm thì Tam tổ là người có tư tưởng thiền đặc biệt nhất. Nếu như, Sơ tổ Trần Nhân Tông là nhà cầm quyền đầy uy lực, người khởi xướng thiền phái Trúc Lâm, với đôi cánh đạo đời vẹn toàn. Nhị tổ Pháp Loa người có nhiều cống hiến to lớn trong việc hoằng dương Phật pháp mở rộng thiền tông trên khắp cả nước. Cả hai vị tổ đều chủ trương thiền nhập thế đi thẳng vào cuộc sống làm tất cả mọi việc phụng sự cho thiền phái, cho đất nước.

Ngược lại Tam tổ Huyền Quang mang hình ảnh thuần túy của một nhà tu hành hướng nội, ngài thích ẩn cư trong chốn núi rừng tĩnh lặng, thích cảm giác tự do tự tại, bất kể giữa phồn hoa đô thị, hay núi rừng u tịch, đều trân trọng mỗi khoảnh khắt tươi đẹp quý giá của cuộc sống.

Có lẽ, bản thân là thiền sư nhưng tố chất bên trong con người Tam tổ Huyền Quang luôn ẩn chứa một tâm hồn khao khát cuộc sống tự tại, để có được sự tự do tiêu dao ấy ngài đã bắt đầu cho cuộc hành trình về Vân yên của mình bằng cách buông. “Buông niềm trần tục, Náu tới Vân Yên, Chim thụy dõi tiếng ca chim thụy, Gió tiên đưa đôi bước thần tiên”.

Để bước chân về Vân yên được nhẹ nhàng thanh thoát, Tam tổ Huyền Quang đã buông bỏ hết thảy mọi ràng buộc của thế gian, buông bỏ chín nghìn nhân duyên, buông bỏ danh vọng, khoa cử bảng vàng. Buông bỏ hết mọi phiền não kiếp nhân sinh, buông xuống gánh nặng cuộc đời, buông hết rồi nên con đường về Yên tử mới nhẹ nhàng vô ưu.

Chân bước thỏng thả mang theo bầu nước đủng đỉnh tự do dạo chơi khắp núi sông, vừa đi vừa cất tiếng ca hát vang khắp cả đất trời,“Bầu đủng đỉnh giang hòa thế giới, Hài thong thả dạo khắp sơn xuyên”. Ở đó một tinh thần sống lạc quan vô biên vô tận, không còn bị chi phối bởi giáo lý kinh điển, không còn chấp vào cái có, cũng không vướng vào cái không. Tam tổ thật sự đạt đến trạng thái vô ngã, vô phân biệt, quên đời quên hết cuộc tang thương.

Hơn nửa cuộc đời trải thân nơi cõi thế, ngần ấy thời gian đủ để ngài kinh qua mọi thăng trầm vinh nhục, rồi một sớm mai chợt bừng tỉnh giấc mộng nhân sinh, nhốm phồn hoa đầu đà bạc tỷ. Nhìn thấu hồng trần như mộng như huyễn, nhân gian vốn chỉ là chốn dừng chân không phải nơi quay về, chỉ có Phật pháp mới có thể giúp ngài tìm lại cố hương. Từ đó, người thanh niên khoa bảng thuở nào buông bỏ hết bao nỗi niềm trần tục, tránh xa bệ rồng, mỹ nữ giai nhân thong thả mà dạo chơi khắp núi sông.

Con đường lên núi Vân yên như đường vào cung điện, ở đó có hoa mai, có tùng bách đứng chầu hai bên như quan ngự sử đứng chầu vua. Hoa tử vi ví như chư vị công hầu khanh tướng, hoa phỉ thúy sắp thành hai hàng loan phượng, tới đây một khung trời thịnh thế chốn cung đình được Tam tổ đem về núi yên tử.

Nhưng rồi từ cảnh sắc lộng lẫy vương giả kia người tu hành chuyển hóa nó thành cảnh Phật siêu thoát, “Lạ những ôi, Tây trúc dường nào, Nam châu có mấy, Non linh thứu ai đem về đây” . Phật pháp không tách biệt thế gian, dù trong hoàn cảnh nào thì mối quan hệ đạo đời vẫn luôn khăn khít hỗ tương nhau không thể tách rời. Trong đời ta đi tìm đạo, thấy đạo rồi ta lại hướng ra cuộc đời.

SC.Thích Nữ Hạnh Hiển