Trang chủ Thời đại Xã hội Tính cách nhân bản và thực tiễn của đạo Phật

Tính cách nhân bản và thực tiễn của đạo Phật

100

Những vụ diệt chủng, tàn sát tập thể xảy ra ở Campuchia thời Pôn Pốt, ở Bosnia, ở Phi châu… Nạn tội ác, phạm pháp không chừa một nước nào, kể cả thành phần ngây thơ nhất là trẻ em. Lực lượng cảnh sát bảo vệ trật tự trị an càng ngày càng tăng về số lượng lẫn chất lượng… Bởi thế, nhiều triết gia, trí thức Tây phương hiện đại cho rằng sự tiến bộ của nhân loại, nhìn một cách toàn diện, thực chất chỉ là ảo tưởng về sự tiến bộ.


Phải chăng trong sự hiện đại hóa của các nước tiên tiến, người ta vẫn chưa tìm ra cách nào để trả lại nhân tính cho con người, khi ở những nước có nền kỹ nghệ giải trí phim ảnh và ca nhạc đem lại số lợi nhuận xuất khẩu cao nhất, hình ảnh của các anh hùng phần đông là những con người tượng trưng cho bạo lực, hung hãn, vô nhân tính; và hình ảnh của người phụ nữ phần nhiều chỉ là những đối tượng khiêu gợi tình dục?


Ðạo Phật, với muôn ngàn hướng đi, không gì khác hơn là làm cho con người càng ngày càng thực hiện được tính người cao đẹp của mình, những điều Chân Thiện Mỹ đang tiềm tàng hột giống nơi tính người được thực hiện, và sự thực hiện trọn vẹn thì gọi là thành Phật. Ðức Phật đã thực hiện tính người một cách trọn vẹn, trở nên con người lý tưởng (nói theo danh từ Phật giáo là trí huệ, vô ngã, vị tha), trở thành con người toàn thiện và toàn diện, được nói gọi là Bi-Trí-Dũng, hay là bậc Chí thiện, hay là bậc Trong sạch, bậc Vị tha, bậc Ðiều ngự…


Tính nhân bản của đạo Phật là làm cho con người trở nên Người hơn, phát huy tất cả mọi tính người cao đẹp và thải trừ mọi bản năng thấp kém và hèn hạ (tham, sân, si, sát, đạo, dâm, vọng…). Con đường thành Phật không gì khác hơn là con đường làm viên mãn những đức tính vốn đã tiềm ẩn yếu ớt nơi con người bình thường: trí sáng suốt, lòng nhân ái, sự ghét ác thích thiện, sự tự chế, sự kiên định, lòng hy sinh… và xóa bỏ hẳn tất cả những gì làm cho con người bị ràng buộc, bị tha hóa, bị hạ thấp, bị trĩu nặng, bị mất phẩm cách của bản năng thú vật (tính ích kỷ, lòng ghen tỵ, sự giận dữ, sự si mê, sự tham lam chiếm đoạt mất hết lương tri…). Cuộc đời này trở nên hỗn loạn khổ đau cũng vì những tính tiêu cực đó.


Tính nhân bản của đạo Phật là chống lại những gì làm hạ thấp con người và un đúc cho con người mọi đức tính cao đẹp để thực hiện trọn vẹn định mệnh và ý nghĩa làm người của nó: thoát khỏi mọi ràng buộc thấp kém để trở thành một mẫu mực chân-thiện-mỹ của vũ trụ, một mẫu mực của Trời và Người, bậc Thiên nhân sư. Bởi thế đạo Phật cho là thiện, là tốt những gì làm cho con người tiến hóa, hướng thượng, làm cho con người thực hiện được tính Người, tức là tính Phật; và xem là ác, là xấu tất cả những gì làm sa đọa, tha hóa con người, dù chúng đến từ đâu, dưới bất cứ hình thức nào.


Tính nhân bản của đạo Phật dược đẩy đến cùng tột, khi không phân biệt con người bình thường (chúng sanh) và Phật: Phật là một chúng sanh ngộ, và chúng sanh là một vị Phật mê. Cũng một con người đó, mà mê là chúng sanh, ngộ là Phật.


Tính nhân bản của đạo Phật còn thể hiện ở một điểm quan trọng: không có một hình thức đời sống nào khác ngoài phận mệnh làm người, không có một thế giới nào khác ngoài trái đất này là tốt hơn cho con người trong việc thực hiện được định mệnh cao cả của mình; thực hiện trọn vẹn tính Người, tức là thực hiện Phật tánh. Trái với nhiều người lầm tưởng rằng đạo Phật là tiêu cực, coi thường kiếp sống con người, là chối bỏ thế giới này; ngược lại, đạo Phật đề cao cái cơ hội hiếm có là được làm người, đề cao hoàn cảnh môi trường đầy gai góc khó khăn, đầy ô trược là cõi Ta bà này vốn là nơi bùn lây, nhưng là chỗ tốt nhất để mọc hoa sen.


Ðạo Phật còn nhân bản, thực tiễn và rất hiện sinh ở chỗ không hứa hẹn, bắt buộc con người hy sinh hiện tại cho một thế giới vật chất hay tinh thần nào khác chỉ có trong sách vở hay trong tư tưởng ước vọng, mà đặt tất cả hy vọng, ước ao, đặt tất cả tiềm năng của ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai vào một khoảnh khắc hiện tiền này, chính trong một niệm hiện tiền này quyết định toàn bộ cuộc sống con người. Trong một khoảnh khắc hiện tại này có đầy đủ con đường đi lên hay con đường đi xuống, có giải thoát hay đau khổ, có toàn bộ sanh tử cũng như toàn bộ cái vốn thoát khỏi sanh tử, tức là Niết bàn. Ðặt toàn bộ cuộc đời người vào trong một niệm, trong một niệm có tất cả vòng thập nhị nhân duyên khổ đau sanh tử cũng như có tất cả an lạc giải thoát, tính cách hiện sinh và thực tiễn ấy thật không đâu bằng đạo Phật.


Ðạo Phật thực tiễn ngay trong chỗ thâm sâu nhất của nó là trí huệ. Ðạo Phật cho rằng con người đau khổ không mãn nguyện không phải vì một đấng nào ban phát hạnh phúc hay khổ đau, không vì một hoàn cảnh bên ngoài nào, mà vì chính tâm thức con người. Con người không thấy đúng, không thấy được như thực, mà chỉ thấy theo vọng tưởng, thành kiến, tham chấp của mình. Từ đó phiền não khổ đau nảy sanh. Cái thấy đúng (chánh kiến) là sự mở đầu cho con đường đi đến hạnh phúc chân thực. Vì thấy sai, từ đó suy nghĩ sai, sống sai, làm sai mà phiền não khổ đau tiếp diễn. Nguyên nhân của mọi phiền não khổ đau của con người và thế giới không gì khác hơn là thấy một cách méo mó, biết một cách sai lầm (vô minh) theo thành kiến, theo chủ quan, theo sự tham đắm riêng, ý muốn riêng của mình. Sự khổ đau do chính chúng ta, bằng cách tự điều chỉnh lại cái nhìn, cách sống của mình. Tóm lại, sự đau khổ chính là do sự bất toàn, sai lầm của con người. Vì thế, để thanh toán vĩnh viễn khổ đau, sợ hãi, bất an… con người phải tiến đến chỗ hoàn thiện, nghĩa là tiến đến chỗ thành Phật. Chúng ta có thể tóm tắt đạo Phật là sự thấy đúng, sống đúng và hậu quả của việc sống đúng đó, tất nhiên là hạnh phúc.


Nêu lên một vài nhận xét trên, để thấy rằng, những vấn đề của nhân loại đã có, đang có và sẽ có đều là những vấn đề nằm tận nền tảng của thân phận con người. Ngày nào con người còn là người, chưa đến chỗ hoàn thiện, những vấn đề ấy sẽ tiếp tục nảy sanh dưới những hình thức khác, với những cách đặt tên khác. Dầu bề ngoài, nhân loại có tiến bộ đến đâu, những vấn đề căn bản vẫn đang còn đó, nếu không nói là nhiều hơn. Con đường của đạo Phật là sự tiến hóa đích thật của nhân loại, đưa con người đến chỗ hoàn thiện, và bởi đó, chấm dứt mọi vấn đề. Tất cả những vấn đề hổn mang chỉ chấm dứt, một khi con người bất toàn chấm dứt.