Trang chủ PGVN Nhân vật Tiểu sử HT Kim Cương Tử

Tiểu sử HT Kim Cương Tử

264

“Hòa thượng Thích Kim Cương Tử, nguyên là thành viên Hội đồng chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khoá 8, 9, 10, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, Phân viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học (GHPG) Việt Nam tại Hà Nội, Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Trị sự Phật giáo Thành phố Hà Nội, Viện chủ Tổ định Trấn Quốc – Thành phố Hà Nội, sáng lập danh dự kiêm Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Trung Tâm Unesco Nghiên cứu và Ứng dụng Phật Học Việt Nam.

Đại lão Hoà Thượng Kim Cương Tử thế danh Trần Hữu Cung, sinh ngày 16/10 năm Giáp Dần 1914 tại xã Mỹ Thắng, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định nơi đất thành Nam, phủ Thiên Trường nổi danh với chùa Tháp. Ngài sinh trưởng trong dòng họ Trần có danh đức nổi tiếng nhiều đời. Ngài là con trai độc nhất trong gia đình, thân phụ là cụ ông Trần Hữu Tạo, thân Mẫu là cụ bà Trần Thị Quy…

Ngay từ thuở thiếu thời trước khi đến trường học tập Ngài đã được thân phụ truyền dạy Nho học và chữ Quốc Ngữ, tham học các nghề như thợ may, thợ mộc, nghề y, dạy học… Ngài đã học nửa khoá Tổng sư tại địa phương.

Năm 15 tuổi, Ngài đã sớm nhận thức được cảnh trần gian ảo mộng, cuộc đời giả huyễn vô thường.

Năm 19 tuổi (1939), Ngài chính thức xuất gia đầu Phật tại chùa Cả, thành phố Nam Định đầu sư học đạo với Sư tổ pháp hiệu Chính Đản, Năm 1937 Ngài trở về chùa Cả tỉnh Nam Định phụng Phật, sự Sư. Ngài được Sư tổ đăng đàn trao truyền giới cư túc tại Tổ đình chùa Cả giữa lúc Ngài ở tuổi.

Năm 23 tuổi (1938) tại hạ trường chùa Cả, Ngài đã học thông suốt cả bộ luật Tứ Phận.

Năm 24 tuổi (1939), Ngài tham dự khoá thi đầu tiên tại Trường Trung học Phật giáo Bắc kỳ và giành giải nhì tại kỳ thi đó.

Năm 1953, Ngài giảng dạy tại Trường Trung học Phật giáo Bắc Việt và dạy ở một số trường lẻ như Vân Hồ, Linh Đường Bồ đề, trường Bái Trạch chùa cả Nam Định và Hải Phòng.

Năm 1954 hoà bình lập lại ở miền Bắc,Ngài đã tham gia phong trào Phật giáo yêu nước. Năm 1956 Ngài giữ chức Trưởng ban nghi lễ Phật giáo Thủ đô.

Từ năm 1957 đến năm 1983, suốt 26 năm công tác Phật sự tại Hải phòng trải qua không biết bao nhiêu gian nan vất vả, Ngài đã có công lớn trong việc xây dựng phong trào Phật giáo yêu nước, đã sớm thành lập được Chi hội Phật giáo thống nhất của các địa phương khác trên miền Bắc ra đời.

Trước khi hoà bình lập lại ở miền Bắc, Ngài đã về quê theo bản nguyện chí công vô tư hoá gia vi tự, Ngài đã xây dựng toà Kim Cương bảo tháp trên đất hương hoả của tổ tiên để lại, từ đó quê hương Ngài mới có một ngôi chùa và được gọi là chùa làng Mỹ.

Tại Đại hội thống nhất Phật giáo cả nước tháng 11 năm 1981, Ngài được suy cử làm uỷ viên thường trực Hội đồng trị sự, giữ chức Trưởng ban nghi lễ TƯGHPG Việt Nam, đồng thời là giảng viên dạy môn Luật học tại trường cao cấp Phật học Việt Nam khoá I tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Từ 1982-1983 do đảm trách công tác trọng trách của Giáo hội, Ngài được Trung ương Giáo hội điều động về trụ trị chùa Trấn Quốc thành phố Hà Nội, tham gia lãnh đạo Phật giáo thành phố Hà Nội. Ngài được Tăng ni Thủ đô suy cử giữ chức Phó trưởng ban Trị sự kiêm uỷ viên giáo dục Tăng ni Thành hội Phật giáo thành phố Hà Nội từ năm 1987 đến khi viên tịch.

Năm 1985, Ngài được suy cử làm Phó chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự kiêm Trưởng ban nghi lễ GHPG Việt Nam. Năm 1990 Ngài được cử giữ chức Viện trưởng Học viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, phân viện trưởng phân Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội kiêm Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Phật học.

Năm 1988, Ngài được Giáo hội cử tham dự đoàn đại biểu Phật giáo Việt nam đi thăm Phật giáo các nước Liên Xô, Mông Cổ, Campuchia góp phần thắt chặt tình hữu nghị đoàn kết thông cảm hiểu biết lẫn nhau với Phật giáo các nước bạn.

Ngài đã trụ trì Tổ đình Trấn Quốc là một di tích lịch sử văn hoá tín ngưỡng lớn của dân tộc, trên cương vị Trụ trì từ năm 1983, Ngài đã tận tâm kiệt lực trong việc hoằng dương chính pháp, ngoài việc giảng dạy cho Tăng ni tín đồ Phật tử tu học.

Ngài còn tham ra nhiều hoạt động xã hội. Năm 1958 Ngài đã tham gia Uỷ viên UBMTTQ thành phố Hải Phòng. Từ năm 1983 là Uỷ viên UBMTTQ Việt Nam. Năm 1985 tham gia Uỷ viên Đoàn chủ tịch UBTƯMTTQ Việt Nam khoá II và khoá III và Uỷ viên UBTWMTTQ Việt Nam trong nhiều khoá, là đại biểu HĐND thành phố Hà Nội khoá 9, 10, 11, là đại biểu Quốc hội khoá 8, 9, 10.

Đại lão Hoà thượng đã được Hội đồng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất, huy chương "Vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân" của UBTƯMTTQ Việt Nam và nhiều bằng khen, giấy khen của Giáo hội UBND, UBMTTQ thành phố Hà Nội.

Ngài đã an nhiên thâu thần thị tịch vào lúc 16gi54 ngày 23 tháng 4 năm 2001 (tức ngày 1 tháng 4 năm Tân Tỵ) trụ thế 88 năm, Hạ lạp 60 năm.

Cả cuộc đời hơn 80 mùa sen nở, Đại lão Hoà thượng hiến dâng trọn đời cho Đạo pháp Dân tộc Chủ nghĩa xã hội, cuộc đời hành đạo và hoá đạo của Ngài rất bình dị chân tu thực học, nghiêm trì Thi la tịnh giới, luôn khơi đèn trí tuệ Văn Thù và thể hiện hạnh nguyện Phổ Hiền Bồ tát tốt đời đẹp đạo.

Ngài thật xứng đáng là một Luật sư giáo thọ của Tăng ni, Phật tử GHPG Việt Nam, là bậc cao tăng thạc đức của thế kỷ XX và đầu XXI. Đức hạnh và trí tuệ của Ngài mãi mãi là ngọn hải đăng soi đường chỉ lối cho hàng Tăng ni, Phật tử Việt Nam”.