Trang chủ Tu học Thiền Tứ Niệm Xứ Thiền định: Ánh Sáng và Nimitta

Thiền định: Ánh Sáng và Nimitta

3970

Đại Đức Dhammapala                                 

Chuyển ngữ: Cô Nguyệt Minh, cô Viên Hương
 
Chuyển thành văn bản: Tu Nữ Santacitta
 
Kính thưa hành giả sáng nay tôi sẽ nói cho quý vị nghe về phần ánh sáng và nimitta. Trong tứ niệm xứ, niệm đầu tiên là niệm thân tôi đã giảng bốn bước thực tập  hơi thở ngắn, hơi thở dài, cảm giác toàn thân hơi thở và an tịnh hơi thở. Nếu hành giả có thể định tâm trên hơi thở dài ngắn liên tục trong vòng một tiếng đồng hồ mỗi thời thiền, trong ba ngày miên mật và không gián đoạn như vậy thì nimitta sẽ xuất hiện tại điểm xúc chạm. Có một số hành giả có thể thấy được nimitta sau khi ngồi khoảng 15 đến 20 phút, nhưng nimitta này không ổn định lúc có lúc mất. Vì vậy hành giả không nên chuyển tâm sang nimitta mà phải đợi trong vòng một tiếng đồng hồ mỗi một thời thiền không có phóng tâm và ba ngày như vậy nimitta mới trở nên ổn định. Tôi nhấn mạnh một lần nữa là hành giả phải có định trong vòng một tiếng đồng hồ trong mỗi một thời thiền không có phóng tâm và giữ như vậy trong vòng ba ngày thì nimitta mới có thể ổn định.
 
Nếu như mỗi bước hành giả thực tập một cách nhuần nhuyễn như thời gian nói trên có nghĩa là mỗi thời một tiếng đồng hồ và liên tục ba ngày như vậy. Mỗi bước hành giả sẽ thấy mình có định sâu và rõ ràng và sẽ phân biệt được thế nào là ánh sáng  và thế nào là nimitta. Vì vậy hành giả không thể nhảy cách các bước được, có nghĩa là nếu không thực tập hơi thở ngắn và hơi thở dài một cách nhuần nhuyễn thì không thể nào chuyển qua bước bốn là an tịnh thân hơi thở ngay được. Nếu như hành giả không thành công trong một tiếng đồng hồ trong mỗi thời thiền và ba ngày liên tục như vậy, thì khi thực tập cảm giác toàn thân hơi thở sẽ có những khó khăn, hành giả trở nên mệt mỏi. Thí dụ khi quý vị lái xe gắn máy, đầu tiên quý vị phải vào số một cho có đà, một lúc chuyển sang số hai, khi ổn rồi chuyển sang số ba và cuối cùng khi có một tốc độ khá tốt quý vị mới chuyển sang số bốn. Vậy không thể nhảy cách từ số này qua số khác mà không đi qua số trước. Đây không phải là thí dụ trong chú giải nói mà đây là thí dụ của tôi thôi
 
Cũng như vậy nếu như hành giả không thể tập được định trong những bước đầu tiên đủ mạnh thì sang những bước sau sẽ không thể nào có định vững chắc và sâu được. Chính vì vậy để không bị mệt mỏi để cố gắng đạt được định thì quý vị cố gắng mỗi một bước thực tập nhuần nhuyễn rồi mới chuyển sang bước sau. Để có được định, đầu tiên hành giả phải thực tập để đếm không phóng tâm, sau đó sang bước hơi thở dài hơi thở ngắn, sau đó mới thực tập toàn thân hơi thở và an tịnh thân hơi thở, không thể nhảy cách bước này sang bước kia được. Tôi chắc chắn rằng nếu quý vị thực tập theo cách này, tức là mỗi một thời thiền ngồi một tiếng trong hơn ba ngày miên mật không gián đoạn thì chắc chắn nimitta sẽ xuất hiện.
 
Nimitta xuất hiện đầu tiên còn ở xa điểm xúc chạm ở phía trên lỗ mũi. Nếu như nimitta còn xa điểm xúc chạm thì nó mới chỉ là ánh sáng của trí tuệ. Ở một số hành giả nimitta xuất hiện trực tiếp ngay, trong khi đối với những người khác thì có ánh sáng trước rồi sau đó mới có nimitta. Tuy nhiên ánh sáng và nimitta là hai cái hoàn toàn khác nhau, không phải là một. Giống như mặt trời và ánh sáng của mặt trời vậy.  Vậy cái gì là ánh sáng? Trừ tâm kiết sanh thức ra tất cả các tâm đều được sanh ra từ tâm căn và được gọi là sắc do tâm sanh. Các nhóm sắc do tâm sanh này chính là sắc chân đế. Nếu phân tích các nhóm sắc này hành giả thấy có ít nhất tám loại sắc. Các nhóm sắc gồm tám thành phần này được gọi là nhóm sắc tám và được tạo ra từ  bốn đại chủng gồm  đất, nước, lửa và gió. Ngoài ra có bốn loại sắc được tạo ra từ tứ đại  là màu, mùi, vị và dưỡng chất. Nếu tâm sản sinh ra cácsắc  là một tâm định và có năng lực mạnh mẽ thì màu của các nhóm sắc mà tâm này sanh ra có màu rất sáng. Hơn thế yếu tố lửa trong nhóm sắc vừa được sinh ra lại tự sinh sản tiếp rất nhiều các nhóm sắc khác và nhóm sắc này được gọi là sắc do nhiệt sanh hay sắc do thời tiết sanh.
 
Mỗi nhóm sắc do thời tiết sanh này lại cũng có màu sắc sáng rực biểu hiện bằng ánh sáng chói. Do đó ánh sáng chói  được tạo thành từ hai loại sắc trên, thứ nhất là sắc do tâm sanh, thứ hai là sắc do thời tiết sanh. Nếu tâm định cao, ánh sáng trải rộng rất xa. Còn nếu tâm định không mạnh ánh sáng chỉ có trong một khoảng cách ngắn, khoảng vài inch. Màu của các nhóm sắc do tâm sanh chỉ lan toả phía trong thân mình. Ngược lại màu của các nhóm sắc do thời tiết sanh trải rộng ra cả ngoài thân. Đó chính là ánh sáng chói xuất hiện chung quanh thân của hành giả  theo tất cả các hướng. Trong trường hợp có ánh sáng, hành giả không được chuyển tâm sang ánh sáng mà tiếp tục để tâm trên đề mục hơi thở. Khi ấy hơi thở trở nên rất vi tế, hành giả cần cố gắng biết được hơi thở với sự tinh tấn nổ lực mạnh mẽ, với chánh niệm sắc bén  và trạch pháp tức là sự thẩm định và hiểu biết đầy đủ về hơi thở.
 
Nếu biết hơi thở rõ ràng với các yếu tố trên định sẽ được phát triển rất nhiều. Khi định tâm của hành giả được tăng cường và phát triển, thường nimitta sẽ phát triển ngay trên chóp mũi của hành giả. Cái gì là nimitta? Theo quý vị nimitta là gì? Thật là đơn giản, nimitta chính là hơi thở. Nimitta chính là hơi thở ra vào, nó sắc do tâm sanh. Khi hành giả thấy được tứ đại trong hơi thở họ sẽ thấy rất nhiều nhóm sắc. Nếu phận  tích ra sẽ gồm chín loại sắc chân đế sau, đầu tiên là nhóm sắc tứ đại gồm bốn sắc chính là đất, nước, gió và lửa, và năm ;loại sắc được sanh ra từ tứ đại là màu mùi, vị, dưỡng chất và có thêm âm thanh. Bởi tâm hành giả trong giai đoạn này đã có định nên màu của các nhóm sắc do tâm sanh rất sáng. Như đã giải thích ở trên chính yếu tố lửa của các nhóm sắc do tâm sanh này tự sản sanh các nhóm sắc tiiếp theo do nhiệt sanh, còn gọi là sắc do thời tiết sanh. Màu của các nhóm sắc mới được tạo ra cũng sáng rực.
 
Chính màu sắc sáng rực của hai loại sắc trên kết hợp với nhau tạo thành nimitta. Ở đây chúng tôi giải thích về ánh sáng và nimitta nhưng xin hành giả hãy nhớ rằng khi phát triển về niệm hơi thở thì hành giả không cố gắng để nhận biết về các yếu tố tạo thành hơi thở hay không cố gắng để biết về ánh sáng trước khi có định vì đó là một đề mục khác của thiền, đề mục tứ đại. Lúc này định của hành giả sẽ bị giảm sút nếu hành giả chú ý các đối tượng khác hơi thở. Khi nimitta  mới xuất hiện hành giả không được chuyển tâm sang nimitta mà phải phớt lờ nó đi và chỉ chú ý vào hơi thở mà thôi. Khi mới xuất hiện nimitta thường không ổn định và khi định trở nên sâu sắc hơn và ổn định hơn thì nimitta sẽ trở nên ổn định, không còn bị dao động lúc có lúc mất nữa.
 
Khi mới bắt đầu nimitta mờ nhạt và đục giống như một làn khói lam và nó được gọi là “học tướng”  (uggaha nimittaibhāga nimitta). Nhưng bởi định tâm chưa hoàn toàn được ổn định, tưởng của hành giả trên nimitta cũng chưa được ổn định, có nghĩa là  tưởng của hành giả có thể thay đổi. Vì nimitta được sanh ra từ tưởng nên nếu tưởng thay đổi thì nimitta cũng thay đổi  về màu sắc và hình dáng. Có lúc  dài, có lúc lại tròn, có lúc màu đỏ và có lúc lại chuyển sang màu vàng. Nếu hành giả chú tâm vào màu sắc và hình dáng của nimitta, nó sẽ tiếp tục luôn thay đổi, định của hành giả sẽ giảm sút, hành giả không thể đắc thiền được. Cho nên ở giai đoạn này nhớ đừng để tâm đến nimitta và chỉ tập trung trên hơi thở mà thôi.). Khi định phát triển nimitta trở nên sáng hơn và rồi sáng rực như một ngôi sao mai chói loà rõ rệt và lấp lánh, lúc đó nó được gọi là quang tướng (pa
 
Phần lớn hành giả đến trình pháp, kể rất nhiều kinh nghiệm mà hành giả thấy trong khi hành thiền trong giai đoạn này, họ thấy cái gì, màu sắc ra sao hình dáng ra sao, hoặc nimitta màu sắc như thế nào v.v…Họ kể rất dài và tôi lắng nghe nhưng cái tôi cần biết là những bước thực tập ra sao, họ tập như thế nào để đạt được định. Tức là tôi muốn biết về cái nhân trong khi họ lại kể về cái quả nên rất mất thời gian, vì thể nào tôi cũng hỏi lại họ xem cách họ thực tập về định ra sao, thế nào là hơi thở dài hơi thở ngăn, cảm giác toàn thân hơi thở ra sao, hoặc an tịnh hơi thở ra sao. Tôi sẽ hỏi họ những bước thực tập. Do vậy xin quý vị khi trình pháp để đỡ tốn thời gian nên kẻ về cách mình hiểu thế nào về các bước thực tập trên hơi thở.
 
Còn khoảng năm phút tôi  sẽ cố gắng giảng về nimitta, hơi thở ra và hơi thở vào. Thực tế khi định đã được phát triển, nimitta sẽ chập lại thành một với hơi thở, và tâm lúc đó sẽ tự động gắn chặt vào nimitta. Xin lỗi, tôi muốn nhấn mạnh cho hành giả một điều như sau, khi quý vị đến trình pháp với tôi, quý vị nói thấy ánh sáng thấy nimitta v.v.. nhưng đây không phải là điều quan tâm đối với tôi vì cái mà tôi quan tâm thứ nhất đối tựơng quý vị đang thực tập là gì, thứ hai quý vị đang thực tập những bước nào để có được định. bởi vì có những hành giả thực tập bước đầu tiên rất căn bản một cách nhuần nhuyễn thì họ đã có được nimitta ngay từ những bước đầu chứ không cần đợi đến bước bốn mới có nimitta.
 
Trường hợp có những hành giả chưa thực tập được những bước đầu một cách nhuần nhuyễn thì tôi không bao giờ dạy những bước tiếp theo, bởi vì nếu họ thực tập một cách bài bản và có hệ thống thì ngay từ những bước đầu họ đã có thể có được nimitta. Vì vậy điều căn bản khi trình pháp quý vị hãy nói về những bước mà quý vị đang thực tập là, bao nhiêu lâu quý vị có thể giữ được thí dụ định tâm trên hơi thở ngắn hơi thở dài, hoặc định tâm trên phưong pháp đếm quý vị có thể giữ tâm an tịnh như vậy bao nhiêu lâu trong những bước căn bản và những khó khăn mà quý vị gặp phải trong mỗi bước thực hành của mình thì lúc đó tôi mới có thể giúp quý vị một cách hiệu quả hơn. Bởi vì nếu tôi dạy những bước sau mà quý vị không thực tập được những bước trước một cách đầy đủ và hiệu quả thì cũng không có ích gì cả. Vì vậy xin quý vị hãy kiên nhẫn để thực tập những bước căn bản trước cho đến lúc cảm thấy hoàn toàn hài lòng và hoàn toàn có định tâm đầy đủ thì tôi chắc chắn sau khi hành giả thực tập đến bước thứ hai hoặc đến bước thứ ba thì sẽ được nimitta, không cần phải chuyển sang những bước sau.
 
Trong Patisambhida có một bài thơ nói về ba yếu tố Nimitta hơi thở vào hơi thở ra, ba yếu tố này không là đối tượng cho một tâm được. “Nếu người nào không hiểu biết về ba yếu tố này thì sự định tâm không thể phát triển và không thể thành tựu nhưng nếu người nào hiểu biết về ba yếu tố nimitta, hơi thở ra và hơi thở vào một cách rõ ràng thì họ sẽ phát triển và thành tựu được định”. Vậy nimitta được biết bởi một tâm, hơi thở vô được biết bởi một tâm khác và hơi thở ra được biết bởi một tâm khác nữa. Khi định tâm phát triển nimitta chập lại làm một với  hơi thở ra và hơi thở vào. Ba yếu tố này trở thành một và lúc đó tâm chỉ có một đối tượng duy nhất. Và để phát triển tầng thiền hay cận định hành giả phải biết được ba yếu tố trên, đến lúc nào nó thực sự chỉ là một đối tượng duy nhất và lúc đó chỉ quán trên một đối tượng là nimitta mà thôi.
 
Nếu như hành giả cùng một lúc để ý đến nimitta và hơi thở, lúc đó tâm của hành giả sẽ có hai đối tượng và không thể nào định có thể phát triển, không thể cùng một lúc tâm có hai đối tượng. Điều quan trọng hành giả luôn thấy được tâm chỉ có một đối tượng mà thôi. Khi phát triển định, hành giả không bao giờ chú tâm đến các đặc tính của đề mục. Có nghĩa là hành giả không bao giờ chú tâm đến các đặc tính riêng như là 12 đặc tính tứ đại của hơi thở như cứng, thô, mềm, nặng, nhẹ, mịn, chảy, kết dính, nóng, lạnh, đẩy và nâng đỡ. Nếu trong giai đoạn này chú tâm đến bất cứ đặc tính nào trên đây của hơi thở thì cùng một lúc tâm sẽ có hai đối tượng. Thực tế hành giả lúc này đang hành đề mục tứ đại thay vì hành đề mục niệm hơi thở. Cũng như vậy hành giả không chú ý đến đặc tính chung của hơi thở đó là tam tướng khổ, vô thường, vô ngã, cũng như không để tâm chú ý đến những giai đoạn sinh, trụ, diệt của hơi thở. Lúc hành giả để ý đến những đặc tính chung như tam tướng của hơi thở và nimitta thì tâm lập tức sẽ có hai đối tượng thay vì chỉ có một đối tượng duy nhất.
 
Hơn thế nữa quán sát về tam tướng khổ, vô thường, vô ngã thuộc về thiền quán là vipassana chứ không thuộc  thiền định và các đối tượng của vipassana là đối tượng chân đế trong khi hơi thở và nimitta lại thuộc khái niệm tục đế, khái niệm dựa trên tưởng. Xin nhắc lại cả hơi thở và nimitta đều không phải thuộc về chân đế mà chỉ là khái niệm, dựa trên tưởng. Hơi thở  với ảo tưởng sai lầm về tính nguyên khối, và nimitta chỉ dựa trên tưởng, do đó  không thể  là đối tượng của vipassana được. Cho nên khi thực tập mà chú tâm đến tam tướng của hơi thở khổ vô thường vô ngã, cũng như của nimitta không thuộc thiền chỉ cũng không thuộc thiền quán. Nó cũng không dẫn đến đắc định hay tuệ, cho nên cần thiết giữ chặt tâm mình  vào một đối tượng duy nhất là nimitta.
 
 Ở giai đoạn này tâm tự động dính chặt vào nimitta. Một khi làm được như vậy các triền cái sẽ bị diệt trừ, các ô nhiễm tâm lắng xuống, chánh niệm được thiết lập và tâm được định ở ngang mức cận định. Dần dần nimitta trở nên trắng hơn và trắng hơn nữa khi định tâm được tăng lên và đến một lúc nó sẽ trở thành trắng xoá. Thực tế nó sáng rực như ánh sáng của sao Vệ nữ và tâm của hành giả sẽ tự động chìm vào trong nimitta. Khi tâm đã hoàn toàn chìm vào nimitta, không còn phóng tâm từ chỗ này qua chỗ khác nữa, định này gọi là an chỉ định. Ở giai đoạn này hành giả định tâm trên nimitta mà không cần phải cố gắng hay nổ lực nữa. Đối với những hành giả mới bắt đầu thực tập đây là một giai đoạn vô cùng quan trọng và quá trình cũng tương  tự đối với những nimitta có màu sắc khác. Nếu như nimitta có màu sắc thay đổi khác nhau, màu xám màu trắng hay màu khác, quý vị cũng không để ý đến màu sắc chỉ để ý đến nimitta là đủ rồi. Trong buổi nói pháp buổi tối, tôi sẽ giải thích về các loại nimitta với các màu sắc khác nữa.
 
Tôi xin dứt lời tại đây.
 
Các loại Nimitta
 
Có nhiều loại Nimitta khác nhau
  • – Nimitta của mỗi người đều khác nhau. Có người có Nimitta dưới dạng cảm thọ dễ chịu, giống bông gòn tua rua, như sợi bông trắng, làn không khí di chuyển hay làn gió lùa; hoặc sáng rực rỡ như sao Mai, hay 1 viên ngọc Rubi hay ngọc trai.
  • – Đối với người khác nó biểu hiện dưới cảm giác thô như thân cây hay một miếng gỗ nhọn sắc. Với người khác nó lại giống như sợi dây dài, 1 vòng hoa, một luồng khói vụt qua, một mạng nhện bị kéo dãn ra, một bông sen hay một bánh xe ngựa (với căn và trục đều là ánh sáng), mặt trăng hay mặt trời. Có một số người có Nimitta có nhiều màu sắc khác nhau.
  • – Khi Nimitta còn mờ đục và không rõ, nó được gọi là học tướng (uggaha nimita). Khi nó trở nên sáng chói lấp lánh nó được gọi là quang tướng.
VD: Thường một Nimitta sáng thuần khiết giống bông gòn là học tướng và sau đó nó trở nên sáng rực rỡ, rõ rệt như sao mai gọi là quang tướng.
  • – Khi nó giống một viên ngọc/đá rubi còn mờ nhạt là học tướng, khi sáng rực chiếu lấp lánh gọi là quang tướng
  • – Tất cả các hình ảnh đều phải được hiểu theo 2 giai đoạn này. Vì thế mặc dầu niệm hơi thở là một đề mục duy nhất, nó tạo ra rất nhiều loại Nimitta khác nhau đối với các hành giả khác nhau.
Yếu tố “TƯỞNG”
  • – Trong Thanh Tịnh Đạo giải thích như sau:
“Đối tượng thiền duy nhất này xuất hiện ra khác nhau vì có sự khác nhau của tưởng. Tướng hơi thở (Nimitta) được sanh ra từ tưởng, có nguồn gốc từ tưởng, được tạo nên do tưởng
  • – Chú giải phụ giải thích thêm:
“Bởi sự khác biệt trong cách nhận thức/cách hiểu của mỗi người (tức là vì tưởng sai biệt) đã có từ trước lúc khi Nimitta hiện lên”
  • – Vì vậy, Nimitta khác nhau là do tưởng sai biệt. Nhưng tưởng lại không khởi lên một mình, nó luôn đồng sanh với các tâm hành khác – đó là các tâm sở.
  • – Cho nên ví dụ, nếu một hành giả định tâm trên Nimitta với một tâm hân hoan, tất cả có 34 tâm hành và khởi lên với tưởng sẽ có các tâm sở khác như xúc, tứ, nhất tâm (định); tác ý, tầm, tứ, thắng giải, cần, dục, …
  • – Cho nên với các hành giả khác nhau, không chỉ có tưởng khác nhau mà tất cả các tâm hành khác cũng khác nhau.
  • – Để làm rõ thêm điều này, theo giải thích của Thanh Tịnh Đạo về tầng Thiền chứng: Phi tưởng Phi Phi tưởng xứ (tầng Thiền thứ 4 trong cõi vô sắc). Trong đó giải thích gọi tầng thiền chứng là Phi tưởng Phi Phi tưởng xứ do tính chất vi tế còn sót lại của sở hữu tưởng:
“Tưởng ở đây là không còn, vì không có khả năng thực hiện các chức năng quyết định của sở hữu tưởng, nhưng cũng không phải không còn tưởng, vì nó vẫn có mặt trong một trạng thái cực kỳ vi tế giống như một hành còn dư sót lại. Vì thế nên gọi là Phi tưởng phi phi tưởng xứ”
  • – Nhưng trong tầng thiền “Phi tưởng phi phi tưởng xứ”, không phải chỉ riêng sở hữu tưởng là vi tế, trong Thanh Tịnh Đạo có giải thích:
“Và ở đây, không phải chỉ riêng tưởng là như vậy, mà sở hữu Thọ cũng thành Phi tưởng phi phi tưởng thọ, Tâm cũng thành Phi tâm phi phi tưởng tâm, sở hữu xúc thành Phi xúc phi phi tưởng xúc, … và tương tự đối với tất cả các tâm sở còn lại”
 
Vì vậy người ta gọi tên của tầng Thiền này do tính chất vi tế của tâm sở nổi trội là tưởng. Nhưng tính chất vi tế này là chung cho tất cả các Tâm sở khác nữa.
Cũng vậy, khi chú giải nói Nimitta khác nhau do tưởng sai biệt, chỉ là giải thích Nimitta (khi suy xét) về tâm hành nổi bật là tưởng. Cũng có thể nói là chú giải đang giải thích về nhiều loại Nimitta xét từ góc độ của sở hữu tưởng, và dùng tưởng để làm thí dụ (chứ không đề cập đến các tâm hành khác).
 
Chúng ta sẽ nói về 34 tâm hành trong các tầng Thiền sau. Giờ đây, chúng ta sẽ tiếp tục giải thích về quá trình phát triển của các hành giả sơ cơ, khi Nimitta mới xuất hiện.
 
 GÌN GIỮ NIMITTA
  • – Một khi Nimitta xuất hiện, hành giả cần phải cố gắng quan tâm để bảo vệ nó. Trong Thanh Tịnh Đạo giải thích ví Nimitta với bào thai của một bậc chuyển luân vương. Cũng tương tự như vậy, Nimitta là một thứ hiếm hoi và tuyệt vời, đáng quý đến như vậy.
  • – Giống như hoàng hậu mang thai một vị chuyển luân vương. Phải giữ gìn cẩn thận bào thai trong bụng khỏi bất cứ rủi ro nào, thì hành giả cũng phải bảo vệ Nimitta đến như vậy. Vậy các rủi ro có thể gặp phải đối với hành giả là gì?
  • – Đó là Nimitta có thể biến mất, do sự lơ đãng của hành giả. Điều này có nghĩa hành giả cần tiếp tục thực hành với sự nỗ lực tinh tấn, chánh niệm và tỉnh giác, hiểu biết rõ. Một tâm lười biếng giải đãi, không tỉnh thức và thất niệm không thể thành tựu được gì đặc biệt trong quá trình phát triển tâm linh.
  • – Trong Thanh Tịnh Đạo có đưa ra 7 cách để giữ Nimitta.
  • 1. Trú xứ: là nơi hành giả hành thiền. Rất quan trọng, phải có một trú xứ thích hợp, là một nơi yên tĩnh và cách biệt, nếu không được vậy thì tại Thiền đường. Còn đối với các Cư sĩ, họ cần tham dự các khóa thiền dài ngày.
  • 2. Nhập thất – chỗ ẩn cư: đặc biệt dành cho Tỳ kheo. Nhưng nơi này phải không được quá khó cho việc Khất thực, có vật thực thích hợp
  • 3. Nói chuyện: như đã giải thích ở phần trên, hành giả phải dừng việc nói chuyện trao đổi trong lúc hành thiền. Nói chuyện tầm phào là một điều rất tai hại như nói về tin tức thời sự, về gia đình, về quá khứ của mình và người khác, … Tai hại hơn là phàn nàn, ca thán như phàn nàn về chỗ ở, vật thực hay về các bạn đồng tu khác, về Thiền sư, … Những chuyện kiểu vậy chẳng có ích lợi gì cả mà chỉ làm phân tán đầu óc hành giả. Ngược lại nên nói chuyện lợi lạc như nói về đề tài Thiểu dục, Tri túc, về Tam vô lậu học, về giải thoát.
  • 4. Con người: ở đây ám chỉ đến các bạn đồng tu. Rất nguy hại khi kết bạn với những người thích nói chuyện vô ích, vô bổ hoặc những ai quá chú ý để giữ gìn về thân thể (luôn chú trọng về thể hình của mình). Những loại người này luôn làm phiền não đối với những người xung quanh. Trong Thanh Tịnh Đạo có kể câu chuyện về một vì Tỳ Kheo tại Tích Lan thời xưa đã mất các tầng Thiền chứng cũng như mất luôn Nimitta bởi kết bạn với một người kiểu vậy. Người mà ta nên kết bạn phải có giới đức, rất ít nói, chỉ nói những điều ích lợi và không bao giờ kêu ca phàn nàn.
  • 5. Vật thực: phải thích hợp. Rất thận trọng những thứ đồ ăn. Vì có lúc những đồ mình thích ăn lại không thích hợp, và ngược lại những đồ thích hợp cho việc hành thiền thì hành giả lại không thích ăn.
  • 6. Thời tiết: không quá nóng và quá lạnh
  • 7. Oai nghi: oai nghi nào giúp định tâm phát triển nhất sẽ là oai nghi thích hợp. Thí dụ, có lúc hành giả thấy buồn ngủ, dã dượi. Lúc đó tốt hơn là đứng dậy và hành thiền đứng thay vì ngồi thiền, hoặc có thể đi kinh hành.
Cũng giống như hoàng hậu mang thai một bậc chuyển luân vương phải chánh niệm trong mọi oai nghi, tư thế thì hành giả cũng cần chánh niệm trong mọi sinh hoạt, đi đứng, nằm ngồi, lúc nào cũng phải tập trung trên Nimitta.
 
Làm sao có thể định tâm trên Nimitta lúc đi kinh hành? Đầu tiên đứng lại phía cuối của đường đi kinh hành và định tâm trên hơi thở. Khi Nimitta xuất hiện và ổn định thì hành giả chỉ chú tâm vào Nimitta. Khi mức độ định đã đủ mạnh và sâu, hành giả đi thật chậm rãi với mắt mở hé một chút, và chỉ định tâm vào Nimitta mà thôi. Đây là cách vừa đi vừa định tâm trên Nimitta. Cũng làm như vậy, mắt nhắm hờ khi cần nói chuyện với người khác.
 
Để có thể định tâm trên quang tướng trong mọi oai nghi là phải thực hành với một năng lực. Hành giả cần có  năng lực thế này. Cho nên hãy nỗ lực tu tập và quý vị có thể thành công. Nếu thực hành miên mật, chẳng bao lâu tâm hành giả sẽ chìm vào Nimitta và trở nên an trú trong Nimitta – đây chính là An chỉ định của tầng Thiền.
 
Mặc dầu lúc đầu tầng Thiền không giữ được lâu, nhưng hành giả không được nản chí và đầu hàng. Phải nỗ lực làm đi làm lại. Nếu nỗ lực tu tập với tỉnh thức, chánh niệm mạnh mẽ, chắc chắn quý vị sẽ thành công để giữ Nimitta trong một thời gian dài. Sau đó họ có thể an trú trong Nimitta một thời gian rất dài.
 
Trích từ Pháp thoại của thày Dhammapala
Nguồn: Thiền viện Nguyên Thủy