Đến hẹn lại lên
Mấy chục năm trước, giữa một thời gian khó chiến tranh và hạn hẹp của bao cấp, xuất hiện ở Hà Nội kiến nghị, gửi đăng hẳn hoi trên báo chí chính thống- rằng nên bỏ Tết, cho đỡ phải… lo Tết.
Xôn xao cả lên, việc tán thành và phản đối. Có cả một luồng cực đoan và phê phán, đến mức một sáng thức dậy, người đề xuất việc bỏ Tết thức dậy, thấy ngay một hàng chữ cảnh báo trên cánh cửa nhà mình: "Năm nay nhà này mà ăn Tết, tao giết." Gia chủ đã phải báo công an cử người đến bảo vệ.
Ngày Tết, vậy là không bỏ được, thế thì cứ đến hẹn lại lên, vào lúc năm hết Tết đến là ta chơi Tết, vui Tết và… lo Tết. Có vẻ như cái sự "tự nhiên nhi nhiên" thế này là việc nhiều phần tự phát để thực hiện – làm nên và hưởng thụ – Tết của chúng ta, mà trong đó và ở đây về mặt hiểu biết về quan niệm thì ít nhất cũng mặc nhiên hàm chứa hai vấn đề rất có liên quan: Ta đang coi Tết là một cái gì nhất thành bất biến, do đó dẫn đến chúng ta đang làm biến đổi Tết mà không hay biết hoặc ít để ý đến.
Tết luôn thay đổi
Và nếu nhận thức được rõ ràng, đúng đắn về từng nét biến động ấy, ta sẽ ngộ ra sự thể mình bây giờ đang làm Tết thay đổi như thế nào và nhất là Tết rồi sẽ ra sao.
Chẳng hạn, những thế kỷ trước công nguyên, người Việt phương Nam không tổ chức Tết vào mùa Xuân, càng không lấy ngày đầu tháng Giêng làm ngày Tết như người Hoa ở phương Bắc. Tổ tiên xa xưa của chúng ta ăn Tết và vui Tết vào mùa Thu, lấy ngày đầu tháng Chín làm ngày đầu năm. Điều nó đã được chép vào sách Thái Bình hoàn vũ ký. Sở dĩ như vậy là vì thời tiết, rồi thời vụ bấy giờ làm nông nghiệp lúa nước chỉ một vụ là vụ Mùa, dẫn đến quan niệm định chế về lịch pháp của cư dân xứ sở phương Nam không giống với phương Bắc.
Chỉ đến đầu Công nguyên về sau, trên cơ sở tăng vụ lúa chiêm cho nông nghiệp, nhất là với ảnh hưởng do tiếp biến của phương Bắc, Tết Nguyên đán vào ngày đầu tháng Giêng mới dần du nhập xuống nước ta.
Giữa những thay đổi trong quãng thời gian hai nghìn năm trở lại đây, có câu chuyện về cái bánh chưng mà không ít người nói và tin rằng từ lúc bánh được Lang Liêu sáng tạo ở thời Hùng Vương cho đến bây giờ, đây vẫn là sản vật bất biến làm nên cấu trúc ổn định của văn hóa và nghi lễ Tết, đặc biệt Việt Nam.
Nhưng sự thực lại là: Từ khởi nguyên đến khởi hình, đây chính là chiếc bánh tét- biến âm từ "bánh Tết"- được bảo lưu bền bỉ trong văn hóa và ngôn ngữ miền Nam, kèm với chữ "đòn" nói lên bản chất vốn là có hình ống tròn hệt như chiếc bánh tầy, hoặc bánh hình chiếc chày tượng trưng của chiếc bánh chầy và có đầu tầy để giã cối- động tác tính giao được bảo lưu ở nhiều vùng nông thôn và miền núi phía Bắc. Gọn lại, đây chính gốc là vật phẩm tượng trưng và có hình sinh thực khí nam mà cặp đôi với nó là bộ phận sinh sản của nữ- đôi bánh đầy- biểu tượng của tín ngưỡng phồn thực trong văn hóa và xã hội nông nghiệp nước ta xưa. Nhưng đến thời thịnh trị của Nho giáo, các nho gia không thể chịu nổi điều này, tiêu biểu là Tiến sĩ thượng thư Vũ Quỳnh, tác giả của san nhuận sách Lĩnh Nam chích quái đã đem ý nghĩa vũ trụ "trời tròn, đất vuông" thay thế cho tinh thần phồn thực của bộ đôi bánh chưng, bánh dầy gốc. Tuy nhiên, sự biến đổi ý nghĩa này chỉ tỏa ảnh hưởng được tới các vùng đô thị và ven đô- nơi nhận được nhiều hơn sự quảng bá của văn hóa cung đình. Còn ở nông thôn, sự bảo lưu cái cổ truyền đích thực vẫn nồng đượm. Lễ hội Tết xuân ở Thanh Bình (Phú Thọ) chẳng hạn, đòn bánh tày vẫn được đem làm một nghi thức “đâm chầy vào oa” vị chủ lễ cầm đòn bánh này dúi ba lần vào tảng đá bẹt có vết nứt ở giữa, thậm chí còn láng nước vào chỗ này.
Ngoài những ảnh hưởng biến đổi không ngừng theo chiều dọc của thời gian, Tết vì có một phổ- trường dung nạp rất rộng, còn tự biến động trên chiều ngang rất mạnh mẽ bằng cách tích hợp vào nó nhiều động thái sinh hoạt nữ thần văn hóa và xã hội. Bóc tách, phân tích từng nghi thức trong hệ thống mỗi lúc một phình ra của các lễ tiết nhân danh Tết hoặc được thực hành vào dịp Tết, dễ dàng nhận ra điều này. Chẳng hạn , trở lại với những điều ghi chép trong Cổ thư Thái bình hoàn vũ ký, nội dung chính nếu không phải là duy nhất của ngày và dịp Tết thu đầu tháng chín của người Việt Cổ chỉ là việc “nam nữ hát đối đáp giao duyên rồi tìm chỗ thanh vắng mà tương hợp”. Nhưng từ sự hồn nhiên của tinh thần lứa đôi ban đầu này, dịp Tết cổ truyền đích thực đã neo móc kết nối vào đây biết bao là sự việc và sự tích: như quàng vai bắt trạch, đâm chầy vào oa, rồi tranh cướp nõ nường, cả việc “tháo khoán” cho những cặp nam nữ là nghèo "được tự do kết hôn" lúc giao thừa đời Trần- chép rành rõ trong sách An Nam Trí lược.
Những bất biến giữa vạn biến
Biến đổi luôn luôn là thế, nhưng Tết cũng vẫn có những bất biến giữa vạn biến mà chúng ta có thể và cần nhận ra.
Qua đó, trước hết là cái triết lý của sự tái sinh và đổi mới của Tết và ở trong dịp Tết. Từ quy luật vận động của tự nhiên và mùa màng đúc kết thành "Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàng" chuyển hóa thành ý niệm về cái cũ phải "tàng (tàn) vào mùa Đông, để cho cái mới tới mùa Xuân thì sinh sôi nảy nở, dẫn đến thế ứng xử "tống cựu nghênh tân" vào dịp Tết.
Thứ hai là đối với cái lẽ sống tự nhiên thì Tết chính là dịp để thiên nhiên và con người được nghỉ ngơi; cho nên không động thổ, thậm chí kiêng cả việc quét nhà mà thay vào đó là việc hưởng thụ văn hóa ẩm thực, lễ hội, văn nghệ, giao tiếp lứa đôi…
Và thứ ba chính là cái tinh thần dân tộc và cộng đồng cốt kết ở ba điểm cốt yếu: tổ tiên, gia đình và làng mạc tìm thấy ở Tết một miền khu trú hết sức thuận lợi và nơi chỗ phát huy nhiều hiệu quả thất. Tôn trọng, tưởng nhớ và thờ phụng tổ tiên là một đạo lớn trong thế giới tinh thần Việt Nam.
Vào thời Trung cổ và cận đại, khi gia đình là đơn vị hạt nhân cơ bản của xã hội thì cúng gia tiên, lập bàn thờ tổ tiên ở chính giữa nhà để đón mời và được tổ tiên về đoàn tụ, hưởng thụ, chứng giám tấm lòng cùng việc làm của con cháu là việc chính, nếu không phải là lớn nhất của từng nhà trong dịp Tết. Còn từ các gia đình mà nhân rộng ra và liên kết thành cộng đồng, làng xã, thì Tết chính là lúc và dịp mở “ hội làng” và “ về quê ăn Tết” của tất cả những người có quê hương mà xa xứ, thậm chí chỉ rời làng ra sinh sống ở đô thị.
Chuẩn mực bị đảo ngược
Mấy điều bất biến của Tết chính là “hệ giá trị” để lại từ nghìn lần Tết xưa cho tới bây giờ. Bởi thế cũng có thể coi đây là chuẩn mực để xem trong việc tiếp tục và biến đổi Tết của ngày nay điều gì là thích hợp và điều gì không thích hợp. Chẳng hạn như chuyện lì xì, chỉ có một hình thức cho tiền trẻ em là giống nhau giữa lì xì và mừng tuổi ngày Tết. Nhưng nếu như sách Việt Nam phong tục (đầu thế kỷ 20) cho biết rõ: “Mừng tuổi” là động thái tượng trưng bỏ mấy đồng tiền xu vào túi, đáp lễ việc trẻ nhỏ chúc mừng tuổi tác của ông bà, cha mẹ thể hiện tinh thần kính già yêu trẻ. Nhưng hiện tại, người ta chỉ biết "lì xì" là cho trẻ nhỏ tiền bạc tiêu xài ngày Tết, mà ít ai hiểu rằng đây là một phong tục của Trung Hoa từ thời nhà Đường: Vua Đường nhận được nhiều “lễ vật” ngày Tết quá, bèn trích bớt một phần lại quả cho bầy tôi. Nhưng rồi thấy “tưởng thưởng” bằng hiện vật mãi không tiện, nhà vua bèn nghĩ được cách bỏ một ít tiền vào phong bao, đem cho. Cách ấy, tiếng Hán- Việt gọi là "lợi thị", phát âm tiếng Hoa thì thành “lì xì”. Như vậy, từ vỏ ngôn ngữ đến ý nghĩa nội dung, “lì xì” là sản phẩm ngoại nhập, khác và trái hẳn với nội dung và ý nghĩa của "mừng tuổi".
Cái tinh thần vị lợi này còn đang biểu lộ ngày càng rầm rộ ở chuyện “quà Tết”. Ngày xưa, dịp Tết cũng là lúc giới quan chức đợi và nhận quà Tết. Nhưng đấy là việc của những người nhận trách nhiệm và được gọi là phụ mẫu của dân. Còn nếu ngày nay, những người đầy tớ của dân, phục vụ nhân dân, mà lại có hành vi giống với những "cha mẹ của dân" trong ý thức và hành động biếu- nhận “quà Tết”, thế thì chính là làm biến dị, đảo ngược ý nghĩa và giá trị của Tết.
Mấy điều về sự đổi thay giữa Tết nay và Tết xưa như thế, chỉ cần tìm hiểu, nghĩ suy đôi chút là nhận ra ngay. Nhưng có lẽ điều đáng quan ngại hơn, ấy là sự ít tự thức, nhiều tự phát, "vô tư" đối với các ý nghĩa và hệ giá trị đích thực của Tết, vô tư mà “ăn Tết, chơi Tết”, khoe sang khoe giàu, hoặc coi Tết chỉ là dịp xả hơi vô tư chơi bời gây ra sự lãng phí.