Chiều tối ngày 18/3/2025, nhằm ngày 19 tháng 02 năm Ất Tỵ, chùa Tiêu Dao tổ chức Lễ an vị tượng Tam Tổ Trúc Lâm tại nhà Tổ. Trước khi buổi Lễ, Đại Đức trụ trì chùa Tiêu Dao đã chia sẻ với đại chúng: “Lược sử về Tam Tổ Trúc Lâm”
Chúng ta đã biết Nhà Trần là một trong những triều đại thịnh trị nhất trong lịch sử dân tộc. Phật giáo vào triều đại này cũng phát triển rực rỡ và đã ảnh hưởng sâu sắc vào mọi phương diện xã hội, tạo nên được những dấu ấn nhất định trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Đặc biệt ba vị Tổ của Thiền phái này là Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang.
Sơ tổ Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308)
Trần Nhân Tông là vị vua có công lao rất lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1287-1288). Sau khi đẩy lùi được hai cuộc chiến tranh xâm lược, vua Trần Nhân Tông đã xây dựng nước Đại Việt hưng thịnh và thi hành chính sách ngoại giao phù hợp. Năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông và lên làm Thái thượng hoàng, rồi sau đó xuất gia theo Phật.
Sơ tổ – Phật hoàng Trần Nhân Tông từng đến chùa Vĩnh Nghiêm (tỉnh Bắc Giang hiện nay) trụ trì, an cư kiết hạ, giảng kinh tại đây. Ngài đã để lại những tác phẩm thơ văn, phú, ngữ lục, văn thư… Trong đó có tác phẩm “Cư trần lạc đạo phú”, gồm có 10 hội, thể hiện tử tưởng và phương pháp hành trì của Thiền phái Trúc Lâm:
“Ở đời vui đạo, cứ tùy duyên,
Đói phải ăn thôi, mệt ngủ liền.
Của quý trong nhà, tìm đâu nữa,
Vô tâm đối cảnh, hỏi chi thiền”.
(Cư trần lạc đạo phú – Kệ vân)
Ngoài ra, ngài còn đưa ra quan điểm về Tịnh độ: “Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương; Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc”. (Cư trần lạc đạo phú – Đệ nhị hội)
Nhị tổ Pháp Loa (1284-1330)
Tổ tên thực là Đồng Kiên Cương, sinh năm 1284, quê làng Cửu La, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Năm 1304, Phật hoàng Trần Nhân Tông (Điều ngự) dạo đi các nơi, phá trừ dâm từ và bố thí pháp dược để trị bệnh khổ. Khi Điều ngự đến sông Nam Sách, Pháp Loa đến xin xuất gia, lúc này Tổ 21 tuổi. Điều ngự trông thấy bằng lòng, nói: “Kẻ này có đạo nhãn, sau ắt là bậc pháp khí”, và rồi đặt tên là Thiện Lai. Sau đó Kiên Cương trở về liêu Kỳ Lân ở Linh Sơn để làm lễ thế phát và thọ giới Sa-di.
Năm 1305, Tổ thọ giới Tỳ-kheo và Bồ-tát tại liêu Kỳ Lân, được ban pháp hiệu là Pháp Loa. Năm 1306, tại chùa Báo Ân ở Siêu Loại, Điều ngự cử sư giảng pháp. Năm 1307, Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông tại am Thiên Bảo trao truyền y bát và tâm kệ cho Nhị tổ Pháp Loa. Năm 1308, Sơ tổ làm lễ truyền thừa cho Nhị tổ và Sư kế thừa trụ trì chùa Siêu Loại. Sơ tổ còn trao truyền Đại tạng viết bằng máu và ngoại điển cho Nhị tổ. Năm 1308, Sơ tổ viên tịch. Nhị tổ viết niêm tụng cho quyển Thạch Thất mỵ ngữ, là tác phẩm của Sơ tổ lúc ở Thạch Thất. Ngày 3 tháng 3 năm 1330, Nhị tổ viên tịch. Trước khi viên tịch, Nhị tổ để lại bài kệ thị tịch như sau:
“Muôn duyên cắt đứt, một thân nhàn
Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng
Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi
Bên kia trăng gió rộng thênh thang”.
Tam tổ Huyền Quang (1254-1334)
Ngài Huyền Quang tên thật là Lý Đạo Tái, sinh năm Giáp Dần (1254), tại làng Vạn Tải, hạ lưu sông Bắc Giang (nay thuộc xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh).
Năm 1274, Đạo Tái đỗ khoa thi Hương, năm sau đỗ khoa thi Hội, được bổ vào chức quan Hàn lâm, đảm nhận văn thư, tiếp sứ giả phương Bắc. Thuở thiếu thời, ngài từ chối cuộc hôn nhân với công chúa Liễu Nữ. Nhân một hôm cùng vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh, Đạo Tái nói rằng: “Làm quan lên Bồng đảo, đắc đạo đến Phổ Đà, trên cõi nhân gian là Tiên, cảnh giới Tây phương là Phật. Phú quý vinh hoa nào khác lá vàng mùa thu, mây trắng ngày hạ, há nên lưu luyến mãi mãi”4. Nhân đó, dâng sớ xin từ chức để xuất gia tu hành và được vua chấp thuận.
Năm 1305, ngài xuất gia với pháp hiệu là Huyền Quang. Về sau ngài trụ trì chùa Vân Yên ở núi Yên Tử. Tổ Huyền Quang tinh thông Phật pháp, học rộng hiểu nhiều, chư Tăng theo học rất đông. Năm 1308, Điều ngự mất, Huyền Quang theo hầu Thiền sư Pháp Loa.
Sau đó Tổ trụ trì ở Thanh Mai Sơn sáu năm, tiếp đó sang Côn Sơn giáo hóa đồ chúng, lập ra đài Cửu phẩm liên hoa. Đến ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334), Tổ Huyền Quang viên tịch tại Côn Sơn, thọ 80 tuổi.
Sau buổi chia sẻ của Đại Đức trụ trì, Đại chúng đã tiến hành nghi thức niêm hương, tụng chú Đại Bi, Bát Nhã và nghi lễ cúng Phật, cúng Tổ v.v… Buổi Lễ An vị tượng Tam Tổ được diễn ra thành công viên mãn.
Sau đây là một số hình ảnh ghi nhận.
CTD