Trang chủ Tin tức Quảng Nam: Kỷ niệm lần thứ 24 HT. Thích Từ Ý viên...

Quảng Nam: Kỷ niệm lần thứ 24 HT. Thích Từ Ý viên tịch

Quang lâm Chứng minh và niêm hương có HT.Thích Thiện Duyên – Thành viên HĐCM, PCT HĐTS, Trưởng BTS GHPGVN tỉnh Quảng Nam; Chư tôn Hòa thượng, Thượng toạ, Đại đức Tăng – Nitrụ trì các tự viện trong và ngoài tỉnh, cùng đông đảo quý nam, nữ phật tử xa gần.

Cố Hòa thượng thuộc đời thứ 43 dòng Lâm Tế, húy thượng Tâm hạ Niệm, tự Từ Ý, hiệu Chơn Thiện, thế danh Trần Văn Chí, sinh ngày 21 tháng 01 năm 1920 (tháng chạp năm Kỷ Mùi) tại làng Trà Tây, xã Tam Mỹ, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.

Ngài sinh trưởng trong một gia đình thuần tín Tam Bảo, có nề nếp gia phong.Song thân là cụ ông Trần Văn Thí và cụ bà Ngô Thị Thời.

Sớm kết duyên với Tam Bảo, 16 tuổi (1936), Ngài theo học Phật Pháp với Thượng tọa Thích Như Đào – Viện chủ chùa Tế Nam, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Trong quá trình tu học tại đây Ngài được Đức Tăng Cang hết lòng thương mến, ban cho pháp danh Tâm Niệm.

Năm 1954, rời Đà Nẵng, Ngài về Tam Kỳ tu học tại chùa Tịnh Độ, kế đến trú tại chùa Minh Hương do hội người Hoa tại Tam Kỳ sáng lập. Hai năm sau (1951), Ngài đến xây dựng cơ sở Chi Hội Phật Học Tam Kỳ (tức Hội Quán Phật Học Tam Kỳ, ngày nay là chùa Hòa An). Năm 1959, Ngài được Đức Tăng Cang cho thọ giới Sadi và ban cho Pháp tự là Từ Ý. Mùa hạ năm 1960, Ngài thọ Cụ túc giới tại Giới đàn chùa Ấn Quang, Sài Gòn, do Hòa thượng Thích Thiện Hào làm Đàn đầu.Sau khi đắc giới Ngài trở về Tam Kỳ phụng hành Phật Pháp, tu bổ và phát triển chùa Hòa An thành cơ sở của Tỉnh Hội Phật Giáo Quảng Tín, và được Viện Hóa Đạo bổ nhiệm làm trụ trì. Từ đây, Ngài khởi đầu cho sự nghiệp hoằng hóa rộng lớn sau này.

Trong suốt cuộc đời hành đạo, Hòa thượng đã đem hết tâm lực, trí lực và sức lực phục vụ cho Giáo hội. Năm 1960, Ngài đảm trách sứ mệnh phát triển Chi Hội Phật Học Tam Kỳ đã tạo tiền đề cho quá trình lớn mạnh của Phật giáo huyện Tam Kỳ và các huyện lân cận sau này. Năm 1977, nhận lãnh chức vụ Chánh Đại diện Phật giáo huyện Tam Kỳ. Ngoài ra, Ngài thường âm thầm thực thi những Phật sự trọng yếu khác vào những thời điểm khó khăn và cần gấp như: dự phần tổ chức Đại Giới đàn tại chùa Long Tuyền, Hội An (1984), mở Phương Trượng Giới đàn truyền giới Sadi tại chùa Hòa An (1988), v.v… Tất cả Phật sự với Ngài đều là sứ mệnh Như Lai nên trước hay sau, thuận hay nghịch duyên, Hòa thượng đều không nề hà mệt mỏi và chùn bước.

Vì muốn xiển dương Đạo Pháp ngày một sâu rộng hơn nữa nên Ngài liên tiếp phát nguyện khai sơn, trùng tu xây dựng nhiều cơ sở tự viện và Phật đài nhằm có chỗ để cho chư Tăng tu tập và tín đồ xa gần quy ngưỡng. Năm 1962, Ngài khai sơn xây dựng chùa Từ Quang tại xã Kỳ Hương, huyện Tam Kỳ (nay là phường Trường Xuân, thành phố Tam Kỳ); Năm 1968, đại trùng tu chùa Hòa An huyện Tam Kỳ (nay là phường An Xuân, thành phố Tam Kỳ); Năm 1969, đại trùng tu chùa Từ Quang. Năm 1972, tại quê cha đất tổ xã Tam Xuân, huyện Núi Thành, Hòa thượng đã khai sơn xây dựng chùa Hưng Quang, cũng năm này dựng tượng Phật Thích Ca tại Thiên Long Thạch Động (chùa Hang, xã Tam Nghĩa huyện Núi Thành) và tượng Quán Thế Âm Bồ Tát tại đập Bà Quận. Thương tưởng hàng nữ xuất gia thiếu nơi tu tập, vào năm 1973 Hòa Thượng khai sơn xây dựng chùa Sư Nữ Diệu Quang (phường Hòa Hương, thành phố Tam Kỳ). Trên đường hóa duyên phương Nam, năm 1986 Ngài khai sơn xây dựng chùa Phước Quang tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Sau ngày đất nước thống nhất, Ngài còn hổ trợ tu bổ cho một số chùa bị hư hoại bởi chiến tranh tại các vùng nông thôn ở Quảng Nam.

Sự nghiệp “Tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức” và chí nguyện độ sanh là điểm son sáng nhất trong suốt cuộc đời hành đạo của Ngài.Với cái nhìn triều mến ban phát từ bi giọng nói nhẹ nhàng trầm ấm, Ngài đã khuyến hóa không thể đếm được số người theo về cửa Phật. Ngài độ hàng đệ tử xuất gia trên 50 vị, trong đó đã có nhiều vị nhận lãnh chức vụ trụ trì, có những vị phục vụ cho Giáo hội, còn một số đang theo tu học hành đạo tại nhiều nơi trong nước và nước ngoài. Hòa thượng thường xuyên quan tâm hỏi han, thăm viếng, tặng quà và khuyến khích tu tập nên đã có hàng ngàn đệ tử tại gia nương về Quy y Tam Bảo, hướng theo hạnh nguyện của Ngài. Thật là:

Bất từ bi quyện tiếp chúng độ Tăng, linh Chánh lý thời thời quảng bá.

Vô tích gian lao lợi sanh hoằng Đạo, tỷ Pháp luân xứ xứ xương minh.

(Không nề nhọc mỏi tiếp chúng độ Tăng, khiến Chánh lý luôn truyền bá.

Chẳng quản nhọc nhằn lợi sanh truyền Đạo, cho Pháp luân mãi mãi xương minh.)

Thuận lý vô thường, thân từ đại trả về tứ đại, duyên sanh đã mãn, hoằng hóa đủ đầy, lão bệnh tử thong dong thọ nhận, mùa Đông năm 1989, Ngài lâm trọng bệnh. Vào lúc 01h25’ ngày 21 tháng 7 năm Canh Ngọ (09/9/1990), tại chùa Hòa An như đã chuẩn bị hành tràng sẵn sàng cho cuộc ra đi vĩnh viễn, Ngài bảo đồ chúng đỡ ngồi dậy rùi an nhiên hòa tiếng niệm Phật cùng tứ chúng đệ tử, ngay đó thâu thần thị tịch, trụ thế 72 tuổi, tròn 30 hạ lạp, tán thán rằng:

Từ Tâm mẫn niệm hậu lai, Đệ tử vĩnh hoài ân hóa dục.

Ý chí đốc hành tiên huấn, Tăng già cộng ngưỡng đức đề huề.

(Từ tâm thương nghĩ hậu lai, Đệ tử mãi ghi ân hóa dục.

Ý chí dốc theo tiên huấn, Tăng già luôn nhớ đức đề huề.)

Nam Mô Tự Lâm Tế Chánh Tôn Tứ Thập Tam Thế Húy Thượng Tâm Hạ Niệm Tự Từ Ý Hiệu Chơn Thiện Hòa Thượng Giác Linh Chứng Giám.