Khái quát về việc khảo tả
Phật viện Đồng Dương nay thuộc làng Đồng Dương, xã Bình Định, huyện Thăng Bình tỉnh Quảng
Sách sử cổ nước ta chỉ ghi chép đơn giản về Phật viện nầy. Chẳng hạn như Đại Nam Nhất Thống Chí triều Nguyễn, trong phần trình bày về những di tích thuộc tỉnh Quảng Nam có viết như sau: “Huyện Lệ Dương có hai ngọn tháp, ở thôn Đồng Dương. Hai tháp nầy cách nhau chừng mười lăm trượng, có một toà cao bốn trượng, xây gạch, trên hình bát giác, dưới hình vuông, mỗi mặt dài một trượng. Cách đó bốn trượng thì có một nền cũ...” Ngoài ra sách sử cũ của nước ta không thấy ghi chép gì thêm về toà tu viện Phật Giáo nầy.
Vào tháng sáu năm 1901, nhà khảo cổ học thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ, L. Finot đã đến nghiên cứu thực địa và khai quật khảo cổ học đã công bố khá tỉ mỉ những di tích, di chỉ nầy, Tiếp sau đó, nhà khảo cổ học H. Parmentier vào năm 1902 cũng đã nghiên cứu thêm và xác định: Đây là một trong những di tích quan trọng vào bậc nhất của xứ sở Chăm Pa.
Căn cứ theo công trình nghiên cứu tiếp theo đó của L. Finot, thì đã tìm thấy được 229 hiện vật, trong đó có pho tượng Phật bằng đồng nổi tiếng cao hơn một mét. Pho tượng nầy hiện nay được trưng bày tại Bảo Tàng Viện Sài Gòn hiện nay.
Ngay sau khi phát hiện, tượng đồng Đồng Dương đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khảo cổ học thuộc trường Viễn Đông bác Cổ (E.F.E.O) và Hội Nghiên cứu Đông Dương (S.E.I), như R. Rougier, A. Foucher, V. Goloubew, P. Dupont, H. Parmentier. Theo nhận định chung của các tác giả nầy thì: Pho tượng Đồng Dương là một trong những pho tượng Phật cổ nhất và thuộc vào loại đẹp nhất ở khắp vùng Đông Nam Á cùng thời đó. Pho tượng cao 1,08 mét, (không có bệ), thể hiện đức Phật đang đứng với hai tay hướng cân xứng ra phía trước. Đức Phật khoác trên mình một chiếc áo cà sa dài để hở vai phải và có một u nhỏ (Uma) ở giữa trán.
Tượng Đồng Dương cũng như các tượng Phật cùng kiểu khác đã được tìm thấy ở Đông Nam Á như tượng Phật ở Kô Rạt (Thái Lan), tượng Phật Sikendung (Selebes- Indonesia), tượng Phật Jember (Java – Indonesia), tượng Phật Angkor Borei (Kampuchia)… tất cả những pho tượng nầy đều mang phong cách tượng Phật Amaravati của Ấn Độ. Trong khi đi sâu vào các chi tiết khác, một số nhà nghiên cứu kể trên thì lại nhấn mạnh: Tượng Phật Đồng Dương lại giống các tượng Phật của Amaradhapura (Sri Lanka). Căn cứ vào đó, họ giả định rằng: Tượng Phật ở Đồng Dương có niên đại vào khoảng thế kỷ III – IV và dã được nhập trực tiếp từ Ấn Độ hay
Một nhà nghiên cứu nổi tiếng người Pháp, giáo sư J. Boisselier nhấn mạnh: Tuy không khẳng định tượng Phật ở Đồng Dương là tác phẩm du nhập, vẫn phải công nhận là tượng nầy cũng là tác phẩm có quan hệ sâu sắc với truyền thống truyền thống Ấn Độ, đến nổi không thể nào phát hiện ra vết tích của một truyền thống bản địa…”
Như thế, dù là tác phẩm du nhập hai tại bản địa, pho tượng Phật Đồng Dương là một bằng chứng về sự ảnh hưởng của Phật Giáo Amaravati của Ấn Độ đối với tôn giáo Chăm Pa nói chuing và vùng Đồng Dương nói riêng. Cũng không phải là chuyện ngẫu nhiên mà vùng phía bắc
Kết quả những cuộc nghiên cứu Đồng Dương
Tượng Phật đứng được phát hiện đã cho phép các nhà nhiên cứu liên tưởng đến sự giao thoa của trung tâm Amaravati của Ấn Độ hay trung tâm Phật giáo Amaradhapura thuộc nước Tích Lan (Srilanka) có niên đại khá sớm được du nhập vào Chămpa. Ngoài sự chú ý về bức tượng nói trên, công trình khai quật khu trung tâm Phật viện Đồng Dương của nhà nghiên cứu H.Parmentier cũng cho chúng ta khái quát rõ nét hơn về mô hình xây dựng và diện tích xa xưa của Phật viện. Sự hoành tráng hết sức hùng vĩ của một quần thể kiến trúc điêu khắc như cho ta lạc vào một thế giới nghệ thuật cùng với thiên hướng tâm linh đã được đáng giá là độc đáo vào loại bậc nhất của Chămpa và Đông Nam Á, một nguồn di sản Phật giáo được xem như hết sưc quan trọng thuộc vào loại bậc nhất.
Theo mô tả của H.Parmentier thì toàn bộ khu vực kiến trúc kế tục kéo nhau dài xuyên suốt hơn 1330m bắt nguồn từ hướng Tây và chấm dứt ở hướng Đông. Riêng khu vực chánh điện thờ Phật lại là một vành đai hình chữ nhật dài 326m có chiều rộng 155m cùng hệ thống tường bao bọc kiên cố. Từ chánh điện mở ra một con đường rộng dài hơn 763m hướng thẳng vào phía Đông đi vào một thung lũng hình chữ nhật có diện tích là 1080m2, đây được xem như cụm liến trúc còn lại bảo lưu được phần đài thờ chính khá nguyên vẹn cùng các bức tượng thờ bằng đá, đồng được phát hiện xung quanh. Ngoài phần chánh diện được phát hiện hệ thống nền gạch của một khu tăng xá, giảng đường nói nhau trên một chu vi rộng lớn, những viên ngói dùng lợp cho khu xây dựng cũng được phát hiện rải rác đâu đây của Phật viện cho phép ta liên tưởng đến một cấu trúc xây dựng bao gồm phần chánh điện dùng nơi thờ tự lễ bái, khu tăng xá là nơi lưu trú cho các vị tăng tu học và giảng đường dùng làm nơi diễn giảng. Một mô hình Phật diện khép kín rất lý thú cho công cuộc đào tạo tăng tài.
Căn cứ vào một tấm bia được tìm thấy ở Đồng Dương, Phật viện này được hình thành do vua Indravarman II chính thức sáng lập vào năm 875. Đây cũng là khu trung tâm của kinh đô Indrapura một dòng họ, theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đó là sự thấm đượm tinh thần Phật giáo. Một dòng Họ có truyền thống về Phật giáo khi chính thức lên nắm quyền đã khởi xướng phong trào phát tiển các Phật viện, tu viện trong khắp vương quốc của mình kể cả trung tâm Vijaya, Kauthara, Panduranga. Chính vì thế mà trong một tấm bia ghi lại lời nói của vị vua sáng lập ta Phật viện này “Mọi thành quả của ông tạo được ngày hôm nay không phải do sự kế thừa nào cả mà do phước đức của ông tạo được nhiều đời nhiều kiếp tu tập mới kiến tạo nên…”, cho ta thấy lòng tin và tính thuần thành của người phụng sự, họ pháp, cho Phật giáo Chăm Pa một cách lớn lao, người theo bia kí mô tả hết lòng vì tinh thần phục vụ chánh pháp.
Một năm sau ngày phát hiện ra pho tượng Phật bằng đồng nổi tiếnt nói trên vào 1902, nhà khảo cổ học người Pháp H. Parmentier đã đến tiến hành cuộc khai quật khu Đồng Dương. Với những thành tựu khiêm tốn, H. Parmentier đã phát hiện được vết tích của quần thể kiến trúc. Toàn khu chạy dài 1,330 mét, theo hướng tây – đông. Trong đó, khu đền thờ của Phật Viện ở trong một vành đai hình chữ nhật có chiều dài 328 mét, chiều rộng 155 mét, chung quanh có tường bao bọc. Từ khu đến chính, một con đường rộng, dài 735 mét chạy về hướng đông.
Như thế, theo các nhà nghiên cứu trên, Đồng Dương chính là đô thành Indrapura của vương triều
Bia Đồng Dương còn cho biết, người sáng lập ra vương triều nầy, vua Indravarman II là “được thừa hưởng vương triều, không phải là do ông cha lưu truyền lại, mà do số phận may mắn và do nhà vua đã tu nhân, tích đức từ nhiều kiếp trước mà có”. Tất cả những điều được ghi trên bia ký, theo các nhà nghiên cứu, đã chứng tỏ “Vuơng triều Indrapura là sự hưng khởi của một dòng họ địa phương hay một thủ lĩnh địa phương, và Indrapura trước khi trở thành thủ đô của vương triều, mới có thể là thủ phủ của dòng họ Indrapura II.
Nghệ thuật Phật Giáo
Nhà vua Indrapura II cũng như cả dòng họ của ông đã theo đạo Phật đại thừa, cho nên sau khi lên ngôi, vị vua sáng lập ra triều đại triều đại Indrapura đã thúc đẩy cho Phật Giáo phát triển mạnh. Phật Viện Đồng Dương là một trong những công tác chính. Do sức bành trướng, Phật Giáo đã lan toản khắp cả miền Bắc của Cham Pa. Cũng từ đó, cả một giao đoạn phát triển mạnh của Phật Giáo Chăm Pa trong suốt non một nửa thế kỷ (kể từ năm 875 cho đến năm 915) và lưu lại cho hôm nay nhiều công trình kiến trúc và điêu khắc đặc sắc. Hầu hết những công trình và tác phẩm nghệ thuật có xuất xứ từ trung tâm Đồng Dương. Những nghệ nhân ở đây đã tạo nên phong cách độc đáo. Cũng không loại trừ một số ảnh hưởng của Siva-Giáo trong đường nét. Các nhà nghiên cứu đặt tên là “Phong cách Đồng Dương” cốt nhấn mạnh đến chất lượng và số lượng nghệ phẩm từ vùng nầy.
Bia Ký còn ghi lại sự sùng đạo của nhà vua, cho biết vào năm 875 “Do lòng tin vào Phật Giáo, nhà vua đã cho dựng lên một Phật viện (Vihara) và đền thờ Laksmindra Lokesvara Svabhayada. Trên bia ký còn nói đến cõi cực lạc (svargapura) hay “đô thị giải phóng” (moksapura), nơi “trú ngụ” của Phật (Buddhapada). Nhà vua nhấn mạnh đến những kẻ nào phạm tội ác phải chiụ đày đọa xuống địa ngục. Cũng theo bia ký, sau khi xây dựng xong, nhà vua cũng đã cúng dường nhiều ruộng đất, tiền bạc, nô lệ và nhiều thứ khác cho Lôkesvara. Nhà vua dặn: Sau khi băng hà, được đổi danh hiệu là Paramabuddhaloka. Tất cả những sự kiện trên đã chứng minh là nhà vua Indravarman II đã đồng nhất với Phật dưới dạng Bồ Tát. Đạo Phật Chăm Pa trong thời nầy theo đại thừa.
Những diễn biến sau nầy
Có thể tìm thấy những sự kiện phát triển của Phật Giáo Cham Pa. Chẳng hạn, năm 1069 thiền sư Thảo Đường cũng được vua Lý Thái Tôn đưa về Đại Việt khi ông từ Trung Hoa sang Chăm Pa học đạo. Sự hiện diện của sư tổ Trúc Lâm Yên tử cùng với tăng sĩ Đại Việt ghé thăm trung tâm Phật giáo Đồng Dương và thắng cảnh của vương quốc Cham Pa năm 1301 và được ông vua Phật tử tài hoa Jaya Simhavarman III (Chế Mân) tiếp đón một cách nồng hậu, tất cả dường như nói lên tầm vóc quan trọng của trung tâm Phật Viện Đồng Dương như thế nào đối với đạo Phật của các nước trong khu vực. Tầm quan trọng đó đã khiến cho Đồng Dương tồn tại gần như 600 năm dù rằng trong dòng biến suy của lịch sử biết bao cuộc chiến trang tương tàn đã sảy ra. Phật viện Đồng Dương hiện nay đã không còn gì nguyên vẹn cho chúng ta nghiên cứu và chiêm ngưỡng.
Tài liệu nghiên cứu:
Inventaire sommaire des monuments Chams de l’Annam –L. Finot –1901
La statuaire du Champa –Boisselier –
Etudes Indochinoises – E. Huner – 1911
Inventaire descriptif des Monuments Chans de l’Annam –1902
Tháp cổ