Vẻ đẹp của cuộc sống dưới ánh sáng Tứ Diệu Đế (Bài Năm): Phát triển tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả
Phát triển tâm từ chính là để giúp người ta vượt qua tính vị kỷ và hẹp hòi này. Tâm từ nên được bắt đầu từ chính mình vì không ai gần gũi, thân thuộc hay hiểu mình hơn chính mình nên chỉ khi nghĩ đến mình người ta thường độ lượng và dễ dãi hơn. Kể đến tâm từ nên hướng đến những người thân yêu đáng mến hay đáng kính, tiếp tục làm cho trạng thái hoan hỷ, chúc lành này lan tỏa đến càng nhiều người càng tốt. Khi từ tâm đã được củng cố và phát triển, bạn có thể hướng đến những nhân vật xa lạ hay những người mà bình thường bạn không yêu không ghét. Khi cảm giác thương yêu nồng hậu và cởi mở này đã dưng lên tràn đầy và có thể phá vỡ mọi rào ngăn (của bản ngã vị kỷ và hẹp hòi, hay những định kiến thân – sơ, yêu – ghét), tâm từ nên được ban trải đến những đối tượng mà bình thường bạn xem là thù nghịch, khó ưa. Bước đầu, nghệ thuật huấn luyện tâm này nên được lặp đi lặp lại như một công thức như sau:
·“Mong sao cho mình được hạnh phúc an vui (aham sukhi homi). Mong sao cho mình được thoát khỏi mọi ách nạn, tai ương (niddukkha homi). Mong sao mình đừng bị hãm hại bởi oán thù, sân hận (avera homi). Mong sao mình luôn duy trì được trạng thái bình yên, hạnh phúc này (shkhi attanam phariharmai)”.
·“Mong sao người ấy được hạnh phúc an vui. Mong sao người ấy không gặp ách nạn tai ương. Mong sao người ấy đừng bị hãm hại bởi oán thù, sân hận. Mong sao người ấy luôn duy trì được trạng thái bình yên, hạnh phúc này.
·“Mong sao cho những người đó được hạnh phúc an vui. Mong sao họ không gạch ách nạn tai ương. Mong sao những người ấy đừng bị hãm hại bởi oán thù, sân hận. Mong sao họ luôn duy trì được trạng thái bình yên, hạnh phúc này”.
·“Dù người đã không tốt với ta nhưng ta vẫn mong người có được hạnh phúc an vui. Ta không mong người khổ đau. Ta không oán thù người hay mong người bị oán thù, bị ngược đãi. Ta mong người giữ được những gì tốt đẹp người đang có”.
Như trên chúng ta đã đề cập, tâm từ có công năng phá vỡ những rào ngăn giả tạo do bản ngã và định kiến hẹp hòi gây nên. Khi tâm từ được phát triển, những rào ngăn khái niệm như “ta” và “người”, “thân” và “sơ”, “bạn” và “thù” đều bị phá vỡ. Chỉ còn lại một tâm trạng thương yêu và quan tâm một cách hồn nhiên không phân biệt. Điều này không dễ làm vì tâm chúng sanh thường bị cầm tù trong những khái niệm tốt-xấu, ta-người, hay những kinh nghiệm chủ quan và cảm tính như thích – không thích, yêu-ghét, bạn-thù, v.v…
Khó nhất là trải tâm từ đến những người đã gây chông gai đau khổ cho mình. Thương người dễ thương thì rất dễ, nhưng người khó thương thì không dễ dàng gì! Khi bạn gọi lại những kinh nghiệm khổ đau đã trải qua vì ai đó, tâm sân hận rất dễ bùng khởi. Hãy chánh niệm và ghi nhận rằng bạn đang làm một bài tập khó. Đôi khi bạn làm bài tập thứ tư nay trong những dòng nước mắt tuôn rơi. Đừng có tình ngăn chặn nó, hảy để cho những giọt nước mắt oán hờn và tha thứ này trộn lẫn với nhau. Với chánh niệm, bạn sẽ biết được những cảm xúc đó là oán hờn hay thương lòng chảy máu một lần nữa; tha thứ thì nên phát triển, vì nó sẽ làm hàn gắn vết thương đau.
Nếu oán hờn sinh khởi hãy dùng lý trí để “biện hộ” cho “bị can”. Kinh điển đem ra khá nhiều ví dụ và phương pháp để đối trị tâm sân hận trong những tình huống khác nhau. Ở đây Sư sẽ không viết lại những cách đó như trong Chú Giải, Thanh Tịnh Đạo hay Ngõ vào Hạnh Bồ Tát của ngài Thánh Thiên đã đưa ra. Sau đây là một cách khác để vượt qua tâm bất mãn hay sân hận. Chánh niệm (sati) và trí tuệ (sampajanna) là rất quan trọng trong việc nhận biết và xử lý các trạng thái tâm đang sinh khởi. Nó là bước đầu tiên, và cũng là bước hữu hiệu nhất để đối trị với kẻ thù trực tiếp của tâm từ là tâm oán hận. Ngoài ra dùng lý trí để áp đảo những tình cảm không lành mạnh cũng quan trọng không kém.
Hãy tự thuyết phục chính mình rằng người đó không hẳn là xấu hoàn toàn. Trên thực tế không có ai tốt hay xấu hoàn toàn, người đó có thể xấu với người này nhưng tốt với người kia, trung thành với bên này nhưng lại phản bội lại bên kia. Chúng ta thường bị đánh lừa bởi những cảm giác chủ quan và sự tưởng tượng, khuyếch đại do bị tuyên truyền hơn là những sự kiện hay dữ liệu thực tế. Tốt – xấu, thích – không thích, yêu – ghét, bạn – thù thường chỉ là những đánh giá hay cảm nhận chủ quan có tính tương đối và nhất thời (nghĩa là bị giới hạn bởi không gian, thời gian và vị thế của người nhận thức). Biết được điều này, bạn sẽ được “cởi trói”, thoát ra khỏi những nhận thức chủ quan và những kinh nghiệm cảm tính đã cầm tù bạn bấy lâu. Vượt qua được vướng mắc này, bạn có được một kinh nghiệm “a ha”, một cuộc vượt rào từ cá chép thành lão tiên! Rất đáng để cố gắng và thử sức đối diện với chính mình và vượt qua những giới hạn tự tạo. Vì công năng phá vỡ những giới hạn ước định giả rạo nên từ tâm được gọi là vô lượng với ý nghĩa là không giới hạn bởi không gian, không bị ngăn che bởi ý niệm chia chẻ phân biệt.
Kẻ thù gián tiếp của tâm từ là sự dính mắc vào đối tượng và trở nên lệ thuộc về mặt tình cảm. Tình cảm tràn đầy yêu thương của mẹ giành cho con là từ tâm nhưng nếu nó đi kèm với sự lo lắng và ràng buộc thì không là từ tâm. Tình cảm giữa vợ chồng, giữa nhữn người yêu nhau có thể gọi là từ, nếu đó là sự quan tâm vô điều kiện; nhưng nếu nó quá nặng sắc dục hay sở hữu dẫn đến ghen tuông thù hận thì không phải là từ. Từ ái thì không có ràng buộc hay điều kiện. Từ tâm là cho chứ không đổi chác theo kiểu có qua thì mới có lại. Nếu bạn chỉ thương những ai thương bạn và làm theo ý bạn thì đó không phải từ tâm, mà chỉ là một cuộc đổi chác buôn bán giữa các bản ngã. Từ tâm thực sự là một tình cảm cao thượng vượt lên trên hàng rào vị kỉ của bản ngã.
TÂM BI (KARUNA)
·Dukkhappatta ca niddukkha – Mong cho những chúng sanh đang đau khổ được thoạt khỏi khổ đau bức bách;
·Sokappatta ca nissoka – Mong cho những ai đang sầu lo được thoát khỏi sầu lo;
·Bhayappatta ca nibbhaya – Mong cho những ai đang sợ hãi được thoát khỏi sợ hãi;
·Hontu sukhi sabbepi panino – Mong cho tất cả những chúng sanh kém may mắn có được hạnh phúc.
Lòng bi mẫn sanh khởi khi hành giả hướng tâm đến những chúng sanh đang khổ đau, sầu lo và sợ hãi trong hoàn cảnh kém may mắn. Tâm bi là sự quan tâm đặc biệt đến những đối tượng đang khổ đau và ước mong, nỗ lực làm giảm thiểu những nỗi đau đó. Bi mẫn thì ngược lại với sự nhẫn tâm, làm ngơ hay cười cợt trên nỗi đau khổ của kẻ khác. Tính chất của tâm bi là lòng thương xót; nó được biểu hiện bằng sự quan tâm; chức năng của bi là loại trừ sự bất nhẫn. Thành công của tâm bi là sự thông cảm nhưng không bi lụy.
Bi (karuna) phải đi với trí (panna), vì nếu không nó trở thành bi lụy vốn không phải là một trong những vô lượng tâm (brahma vihara). Bi là sự nhạy cảm trước những khổ đau và bất toàn của đời sống nhưng không rơi vào sầu muộn, ảo não do bất lực. Đức Quán Thế Âm là biểu tượng của tâm đại bi, ngài rất nhạy cảm trước những nỗi thống khổ của muôn loài. Sự nhạy cảm và quan tâm này cho phép ngài nghe và hiểu được chúng sanh đang cần gì để giúp đỡ. Hình tượng này thường được ghi tạc như một phụ nữ có ngàn tay ngàn mắt hàm nghĩa sự nhảy cảm và khả năng thất biết và giúp đỡ không giới hạn.
Tâm bi luôn đi với trí, hiểu và tin vào nghiệp quả của chúng sanh nhưng không thờ ơ lạnh nhạt buông một câu hững hờ kiểu: “Ồ đó là nghiệp của nó / chúng”. Nhiều phật tử, ngay cả một số vị tu hành có thái độ bàng quan hững hờ này trước những bức xúc khổ nạn của nhân sinh và quả của nghiệp. Nhận thức sai lầm và thái độ hững hờ vô tình làm hệ quả của vô minh và lòng ích kỷ, và thái độ đó tạo nghiệp xấu, không phải là vô ký.
Có những lúc chính hành giả cũng rơi vào hoàn cảnh bi đát, đó là lúc để hành giả phải có tâm bi mẫn với chính mình, hay những “chúng sinh” trong mình. Hãy thương xót chính mình như mọi sinh linh đau khổ khác trong một thế giới bất toàn nhưng lại là một trường học lớn nhất để làm người. Đây mới chính là ý nghĩa đích thực của câu chú nguyện: “Chúng sanh vô biên thề nguyện độ; phiền não vô tận thề nguyện đoạn; pháp môn vô lượng thề nguyện học; Phật đạo vô thượng thề nguyện thành”. Chỉ khi hành giả trở nên nhạy cảm với mọi khổ đau, biết lắng nghe và chia sẻ, cảm thông, đó là dấu hiệu của sự tiến bộ trên lộ trình tâm linh. Tu hành không phải là để giết chết mọi tình cảm, cảm xúc để trở nên vô tâm như đá cuội. Người tìm kiếm sự thăng hoa trên sự phát triển tâm linh thì ngày càng nhạy cảm và tinh tế hơn, nhạ cảm nhưng không bị “lây nhiễm” hay ảnh hưởng đó mới là nghệ thuật trong việc huấn luyện tâm và điều phục tâm.
Vào thời Bụt còn tại thế có một nữ tín thí phát tâm họ độ 30 vị Tỳ khoe an cư trong một khu rừng gần nhà bà. Mỗi ngày ba tự mình nấu nướng và phục vụ các nhà sư đó với một lòng tịnh tín tuyệt hảo. Tuy nhiên, vào cuối mùa an cư các sư đã không nếm được pháp vị hằng mong mỏi, trong lúc đó vị nữ thí chủ lại tiến bộ rất nhanh trên lộ trình giải thoát. Bà đắc quả thánh bất lai, bậc thánh thứ ba trong các quả vị thánh cùng với khả năng thấu hiểu tâm tư người khác. Với khả năng này, bà biết rằng các nhà sư do bà hộ độ sở dĩ không có tiến bộ gì đáng kể là vì họ không nhận được thức ăn thích hợp. Cũng bằng khả năng ngoại cảm, bà biết được vị nào cần gì, và cung cấp thức ăn và những hỗ trợ thích hợp đến từng vị. Chỉ ít ngày sau, tất cả các nhà sư do bà hộ độ đều chứng đắc quả bị Arahan. Đây là một tấm gương tuyệt vời về lòng bi mẫn và nỗ lực giúp đỡ người khác một cách đúng đắn và hiệu quả mà không bị ảnh hưởng hay hệ lụy.
TÂM HỶ (MUDITA)
Mudita nên dịch là hoan hỷ, vì nó khác với tâm sở piti là hạnh phúc, hân hoan từ bên trong. Tâm hỷ sanh khởi nơi một người không có tâm ghen tỵ. Vì sao người ta là ghen tỵ? Vì họ muốn những cái mà người khác đang có nhưng họ không có. Tâm ghen tỵ làm cho người ta không vui thích hay hoan hỷ với thành công của người khác. Ai cũng biết ghen tỵ thì không đẹp hay không cao thượng, không xứng đáng, do đó nhiều người che dấu nó bằng những nụ cười giả tạo hay lời nói đãi bôi. Thật đán thương, những người như vậy không biết rằng ganh ghét hay tỵ hiềm đang thiêu đốt họ, khiến họ tạo ác nghiệp bằng thái độ, lời nói hay hành động phủ nhận và cự tuyệt, đây chính là những độc tố trong người và trong đời.
Hoan hỷ trước thành công hay hạnh phúc của người khác là một phẩm chất rất cao thượng. Người có tâm hỷ là người có positive mind, một thái độ lạc quan, yêu đời và yêu đời vốn là một thành tố rất quan trọng để có thành công trong bất cứ lãnh vực nào. Khi có hoan hỷ thì không có ganh tỵ hiềm khích. Hoan hỷ là dưỡng chất trong các mối quan hệ lành mạnh, ngược lại, ganh tỵ là độc tố hủy hoại mọi quan hệ tốt đẹp. Do đó phát triển tâm hỷ là để đánh bại con bệnh ganh tỵ nhỏ nhen trong mỗi chúng ta.
Hoan hỷ, bằng lòng với những thành công và hạnh phúc của chính mình là một tình cảm rất tự nhiên mà ai cũng có. Hoan hỷ, bằng lòng với thành công và hạnh phúc của những người thân yêu hay bạn bè cụng khá dễ dàng. Đối với những người dưng không quen biết hay không thân thiết, sự thành công và hạnh phúc của họ thường không là vấn đề đáng quan tâm lắm, tuy nhiên, một người tốt bụng cũng sẵn sàng chia vui hay đón chào nó. Khó nhất là hoan hỷ hay vui mừng đối với thành công của những ai xem ta là thù nghịch. Thường thì phản ứng tự nhiên của mọi chúng sinh là bực bội, căm tức trước những thành quả của kẻ thù. Chúng sinh thường có cảm giác mình bị đánh hay thất thế trước thành công của kẻ thù và cảm giác này làm họ cay cú, ganh tức thêm.
Có một lần Bụt cùng các vị đệ tử của ngài du hành từ thành Vương Xá đến thị trấn Nalanda, sự thành công và tiếng tăm về giới đức và trí tuệ của ngài được truyền đi trong dân chúng khắp nơi. Điều này khiến một vị thầy Bà la môn đang bộ hành trên cùng xa lộ rất căm tức. Ông ta không tiếc lời phỉ bang Phật, Pháp của ngài tuyên giảng và Tăng – giáo đoàn tu hành theo pháp Phật. Cùng đi với ông ta là một thanh niên vốn là học trò của vị bà la môn này. Tuy nhiên, người trai trẻ này lại có phản ứng hoàn toàn ngược lại với vị thầy ganh tỵ đến mù quáng kia. Anh ta ca ngợi Phật, Pháp và Tăng một cách rất ngây thơ hồn nhiên, thậm chí thanh niên này còn dám phản bác lại những lời mạ lỵ của thầy anh ta.
Khi những sự kiện trái ngược này được thuật lại với Bụt, ngài dạy các đệ tử rằng khi nghe ai nói xấu hay ca ngợi Tam Bảo đừng vội rối loạn và tức tối hay phấn khởi và hãnh diện. Một thái độ chân chính trước những thị phi hay tiếng tăm và bình thản nhìn nhận và phân tích sự kiện xem chúng có xác đáng ở mức độ nào. Nếu khi nghe những lời thị phi mà sinh tâm căm phẫn thì chúng ta sẽ không có đủ bình thản nhìn nhận và phân tích sự kiện xem chúng có xác đáng không, và xác đáng ở mức độ nào. Nếu khi nghe những lời thị phi mà sinh tâm căm phẫn thì chúng ta sẽ không có đủ bình thản để nhìn nhận và phân tích sự kiện một cách khách quan và chỉ cho người ta thấy điều đó là không sai quấy. còn nếu khi nghe những lời khen ngợi mà sanh tâm ưu thích hãnh diện thì đây cũng chỉ là một chướng ngại trên đường tu tập mà thôi.
Trở lại với tứ vô lượng tâm thứ ba, tâm hoan hỷ mà chúng ta đang đề cập, câu chuyện trên cho chúng ta thấy vị thầy bà la môn đã không thể nào hoan hỷ được với thành công của Bụt, người mà ông tự cho là kẻ thù, hay đúng hơn là kẻ kình địch. Những người mà chúng sanh cho là thù địch không nhất thiết là người đã từng làm hại đến chúng sanh. Vị bà la môn này muốn có những gì mà Bụt đang có, nhưng do giới hạnh và tài trí kém cỏi của ông ta không cho phép ông đạt được những thành tựu như của Bụt nên ông ta ganh tức và tạo ác nghiệp là nói xấu, phỉ bang Tam Bảo. Ngược lại, người thanh niên đệ tử của ông ta lại có tâm hồn rất trong sáng hồn nhiên. Anh ta không ganh tỵ mà lại hoan hỷ trước những tiếng tăm tốt đẹp về Phật, Pháp, Tăng. Người thanh niên này còn có nhiều cơ hội để thăng tiến, còn ông thầy ganh tỵ kia chỉ có tự hạ thấp nhân phẩm của chính mình. Tâm ganh tỵ khiến người ta nhỏ nhen ích kỷ, còn tâm hoan hỷ khiến người ta rộng lượng và cao quý hơn.
Tại sao biết được ganh tỵ là xấu, hoan hỷ là tốt mà người ta đôi khi vẫn để cho cái tâm nhỏ nhen ti tiện kia sai khiến? Vì chấp ngã và ích kỷ khiến người ta như vậy. Nhiều người còn không biết che giấu sự ích kỷ và ganh tỵ đã trở thanh bệnh hoạn của mình. Có những người mẹ người cha ghen ghét với con trai hay con rể; ngay cả giữa những anh chị em cùng cha mẹ cụng có thể phát sanh ganh tỵ và hơn thua. Từ chấp ngã chấp nhân dẫn đến ganh tỵ và ti tiện, những gì khiến người ta cư xử tồi tệ với nhau. Phát triển và nuôi dưỡng tâm hoan hỷ là để đối trị lại căn bệnh trậm kha này của chúng sanh.
Tâm hỷ có tính chất là sự vui mừng phấn khởi; nó được biểu lộ bằng sự hân hoan, vui thích trước thành công của người khác. Bản chất của hỷ là rộng mở, bao dung; công dụng của nó là loại trừ tâm ganh tỵ; thành công của hỷ là sự vắng bóng những tư tưởng không lành mạnh và những tình cảm nhỏ nhen ti tiện.
TÂM XẢ
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là Tâm XẢ. Trong tiếng Phạn, trạng thái tâm cao thượng này được gọi là upekkhã. Về mặt từ nguyên học upekkhã là một từ ghép từ tiếp đầu ngữ upa có nghĩa là hướng đến, tiến đến, và động từ căn iks có nghĩa là mong muốn. Nhiều người dịch upekkhã là không thích thú, không quan tâm, cách dịch và hiểu như vậy là không chính xác với ý nghĩa của từ này. Theo ngài Buddhadasa (Thailand), một học giả và cũng là một thiền sư nổi tiếng của thế kỷ 20, thì từ này là sự kết hợp của u và pek (kha) có nghĩa là nhìn lên, suy tính, chờ đợi một cơ hội thuận tiện hơn. Về mặt triết học cách diễn giải này hoàn toàn chính xác trong bối cảnh của Tứ Vô Lượng Tâm mà chúng ta đang thảo luận.
Tâm xả là một trạng thái tâm an nhiên tự tại trước mọi biến động của thời cuộc hay sự kiện. Như bầu trời, tâm xả không động trước những đám mây đến hay đi, chúng là mây trắng hay mây đen, bầu trời cũng chỉ như vậy. Trong thiền định, xả là tâm sở bình an và bất động trước mọi vui sướng hay đau đớn. Trong trạng thái này hành giả thấy biết rất rõ ràng và minh bạch nhưng không hề bị ảnh hưởng hay chi phối bởi những gì đang thấy và đang biết, chính vì vậy nó được gọi là bất động và an nhiên tự tại. Một số trường phái thiền hiện hành khẳng định rằng minh sát chỉ có thể đạt đến sau khi xuất định thứ tư này. Trên thực tế, sau khi xuất định thứ tư, tâm hành giả rất vững vàng và sáng rõ. Lúc này niệm rất sâu và tuệ rất sắc bén: bất cứ ý tưởng hay cảm thọ nào sinh khởi, hành giả đều nhận biết và ngay sự nhận biết đó làm cho pháp đang hiện khởi hay sắp thành hình tan rã. Một cái tâm như vậy không tạo lập ý niệm, không phân biệt chia sẻ, chỉ thấy và biết như pháp đang là. Đây gọi là trí tuệ yathabhutamnanadassanam.
Xả như là một tứ vô lượng tâm dựa trên nền tảng và sự hiểu biết của tâm sở xả trong thiền định. Có những tình huống trong cuộc sống mà chúng ta cần tâm xả để được nghỉ ngơi và an nhiên tự tại ngay cả khi hoàn cảnh đảo điên bất như ý. Tâm xả luôn đi với trí tuệ thấy và biết như hiện trạng đang là, nó không phải là có tình làm ngơ hay thờ ơ lạnh nhạt vốn xuất phát từ vô minh. Như gọi ý của ngài Buddhadasa, xả là thấy biết nhưng đang trong trạng thái chờ đợi một cơ hội thuận tiện hơn để có hành động giúp đỡ, hay hành động đem lại lợi ích thiết thực nhất. lúc nào là lúc cần có tâm xả? Trong trạng thái xả, tâm hành giả vẫn có từ, bi và hỷ nhưng các pháp đó không tồn tại ở dạng tĩnh, có thể tính nhưng không biểu hiện hay ứng dụng vì tình hướng hay điều kiện không khả thi. Một cách dễ hiểu hơn, hành giả an trú trong tâm xả khi mọi chuyện đều đâu và đấy, nghĩa là, tất cả đều OK, không có chuyện gì phải làm cả; hành giả thôi lăng xăng lo lắng về việc phải từ với đối tượng này, phải bi với đối tượng kia hay phải hỷ với người nọ. Xả cũng rất cần thiết khi tình huống đảo điên nhưng không tùy duyên nghiệp của chúng sinh, hành giả không thể can thiệp vào được.
Chuyện kể rằng Đức Phật của chúng ta thuộc dòng Thích ca ở thành Ca tỳ la vệ. Sau khi ngài từ bỏ ngai vàng sớm ngài xuất định và trú vào đại bi định để quán sát khắp thế gian xem ai là người có đủ căn cơ và chính mùi duyên nghiệp cho sự giác ngộ giải thoát với sự trợ giúp của một bài pháp đúng thời. Hàng triệu người đã được nếm pháp vị thanh lương giải thoát Từ Phụ. Một ngày nọ, ngài biết rằng vị vua trẻ tuổi của nước Kolsala sẽ kéo quân tàn sát ngài. Chuyện kể rằng Bụt đã ba lần hiện thần thông ngồi thiền giữa đường hành quân của vị vua trẻ ngôn cuồng và thích chinh phạt kia. Vì tôn trọng ngài, vị quân vương ấy đã triệt thoái quân đội mấy lần nhưng đến một ngày kia, khi duyên nghiệp của hai người đã chín mùi để trổ quả (ác), vị quân vương của nước Kolsala thực hiện một cuộc tập kích bất ngờ giết sạch dòng họ Sakya. Trên đường trở về sau chiến thắng của cuộc điều binh rửa nhục kia, quân vương và binh lính đóng quân bên bờ sông nghỉ qua đêm. Một trận lũ quét đã cuốn trôi tất cả vua, quan, binh lính và toàn bộ chiến lợi phẩm. Như vậy chỉ trogn chốc lát hai cường quốc đều tan hoang!
Bụt đã làm gì trong tình huống này? Ngài trú vào tâm xả! Chúng sanh có duyên nghiệp của họ, gay cả một bậc toàn giác như Đức Phật cũng không thể can thiệp vào tiến trình thọ lãnh nghiệp quả đó. Xả có trạng thái tĩnh lặng; nó được biểu hiện là không phấn khích hay lăng xăng bối rối. Tính chất của xả là an nhiên tự tại; công dụng của pháp này là an trú trong sự nghỉ ngơi hoàn toàn. Sự thành công của xả là không bị dính mắc.
Làm thế nào để không dính mắc? Trong các khoa học quán niệm và nghệ thuật an trú cao thượng có một pháp gọi là Niệm Bất Tịnh. Người ta rất dễ dính mắc hay tham đắm khi tiếp xúc với những đối tượng bắt mắt, duyên dáng và quyến rũ. Không chỉ có ở mắt, và cả sáu giác quan của chúng ta đều có thể là lối vào cho tất cả các loại phiền não từ thô đến tế tùy theo cảm quan của từng người. Để đối trị với những con “lũ quét” này hành giả phải đắp đê phòng lũ. “Đê phòng lũ” tốt nhất chính là chánh niệm và tỉnh giác. Kinh điển diễn tả điều này là: “khi mắt thấy sắc, hành giả chán niệm thấy biết nhưng không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng; khi tai nghe âm thanh… khi mũi ngửi mùi hương… khi lưỡi nếm vị…; khi thân xúc chạm, vị ấy có chánh niệm, không nắm giữ đối tượng.” Khi chánh niệm và tỉnh giác thâm sâu, những khái niệm như đẹp – xấu, dễ thương – đáng ghét, thích – không thích, v.v… sẽ không hình thành. Do đó hành giả sẽ không bị vướng mắc vào tham hay ưu, ưa hay ghét. Khi chánh niệm tỉnh giác không đủ mạnh, những gì được thấy, nghe ngửi, nếm và xúc chạm hình thành khái niệm và niệm chia chẻ phân biệt này ràng buộc người thọ nhận bằng những tình cảm yêu – ghét hay tham ưu trong những gì đang trải nghiệm. Nếu tham sinh khởi, biện pháp kế đến là quán niệm trên khía cạnh bất tịnh hàm chứa trong đối tượng.
Kinh điển diễn đạt tiêu đều này là: vị đó có thể xem những đối tượng hấp dẫn, quyến rũ là cỏ rác, bất tịnh. Cũng nên nhắc lại rằng để trú trong tâm từ, tâm bi, hành giả phải hướng tâm đến những đối tượng kém hấp dẫn với sự quán niệm là họ không đáng bị chối bỏ. điều này nghe qua có vẻ như hơi điên điên khùng khùng! Xin thưa, không điên khùng đâu, mà rất lý trí tỉnh táo chỉ có bậc thánh mới làm được. Do đó phép tu này có tên là “ariya-iddhi” – phép lạ của thánh nhân hay phép lạ cao thượng.
Nếu hành giả mong muốn: “ta có thể an trú vào đối tượng khả ái với tâm niệm là không khả ái”, rồi an trú trong đó với ý tưởng là đáng ghê sợ. Nếu hành giả ước mong rằng: “Ta có thể an trú vào đối tượng khả ái lẫn không khả ái với tâm niệm là chúng đáng ghê sợ”, rồi an trú với ý tưởng ghê sợ. Nếu hành giả mong ước rằng: “đối với cả hai đối tượng trên, để ngăn ngừa, ta có thể quán xét chúng với chánh niệm, tỉnh giác và tâm xả”, rồi hành giả an trú vào đó với tâm chánh niệm tỉnh giác đi kèm với xả.
Phép tu này giúp hành giả có tâm công bằng, hỷ xả và không dính mắc vào bất cứ pháp nào, dù chúng là khả ái hay thiếu khả ái, cao hay thấp, tốt hay xấu, sang hay hèn v.v… Đây cũng là phép tu giúp hành giả làm chủ cái tâm hoang dã quen thói nổi loạn và ngang tang do bị sai sử bởi các đam mê cuồng si. Làm sao để an trú tâm trong ý niệm bất tịnh khi đối diện với những đối tượng khả ái có sức hấp dẫn?
Trong 40 đề mục thiền định được giới thiệu trong Thanh Tịnh Đạo, quán bất tịnh chiếm đến 12 đề mục. Chúng bao gồm 10 đề mục quán tử thi, một đề mục quán tưởng về sự bất tỉnh của vật thực và một phép phân tích thể trược. Ngày xưa ở Ấn Độ, tử thi của những người nghèo khổ hay vô gia cư thường bị ném vào nghĩa địa mà không chôn cất, do đó các vị Tỳ kheo có thể vào nghĩa địa để mục kích những tử thi đang thối rửa, bị chim muông cầm thú cắn xé, hay chỉ còn là nắm xương tàn rải tác đó đây. Pháp tu này giúp cho hành giả thấy được tính chất vô thường của tấm thân mà phàm nhân chúng ta thường chăm chút bảo bọc và yêu quý nâng niu. Khi thấy thi hành trong nghĩa địa hay nơi xảy ra tai nạn, hành giả nên quán niệm rằng tấm thân này cũng có chung bản chất bất tịnh và dễ tổn thương, dễ tan hoại như thân kia. Một ngày nào đó tấm thân này cũng phải chịu chung số phận như thân kia, còn lý do gì để thương yêu chiều chuộng hay bám víu vào, tuyên bó nó là “Ta”, là “của ta” chăng?
Một đề mục khác là suy tưởng về sự bất tịnh của vật thực để đoạn giảm tật tham ăn! Hành giả phải suy nghĩ rõ ràng các thức ăn kia khi vào miệng bị nhai nghiến và trộn lẫn với nước bọt, nếu nhổ ra thì trông rất ghê! Khi chúng vào trong dạ dày, được trộn lẫn với chất dịch tiêu hóa, nếu nôn ói ra thì rất kinh tởm! khi chúng ta đã tiêu hóa, phần không thể sản sanh ra năng lượng được tiết ra qua lỗ chân lông, qua đường tiểu hay đường hậu môn, quả là không ai muốn tiếp xúc với những thứ dơ bẩn và thối tha này! Thấy biết như vậy thì còn ham muốn chăng? Phép phân tích thể trược thì đối tượng chính là thân của hành giả. Bình thường thì chúng ta thấy nó như một tổng thể, một bộ máy khá hoàn hảo được điều hành bởi lý trí. Chính vì cách nhìn nhận này nên phàm nhân mới ham mê, đắm đuối trong thân thể của mình hay của người mình yêu, và mê muội torng nhục dục như ghiền á phiện không bao giờ thỏa mãn hay dứt bỏ được. Mục đích của phép phân tích cơ thể thành từng nhóm là để phá vỡ cách nhìn nhận chủ quan cho thân là ta, dưới sự điều khiển của ta. Hành giả bắt đầu quán như sau: trong tấm thân này có tóc, lông, móng, răng, da; thịt, gân, xương, tủy, thận; lá lách, thụy, tim, óc, dạ dày; thức chứa trong dạ dày, ruột già, ruột non, màng ngăn, phân; nước tiểu, nước mắt, máu, mồ hôi, nước mũi; nước nhờn, mủ, dờm, nước dãi, nước dịch.
Không chỉ phân tích mà hành giả còn phải tưởng tượng như thấy chúng riêng rẽ từng bộ phận như thấy những món hành thịt bày bán. Sauk hi đã thuần thục trong việc “mổ xẻ” cơ thể mình, hành giả có thể áp dụng cùng cách đó với thân thể của người khác. Khi quán niệm như vậy, hành giả sẽ không còn ham muốn thân thể của bất cứ ai, vì cảm giác ghê tởm dâng lên, hành giả không còn say sưa đắm đuối trong than nữa. Đây chính là diệu dụng của pháp quán niệm thể trược.
Theo: Vẻ đẹp cuộc sống dưới ánh sáng Tứ Diệu Đế
Tác giả: Dhammananda Bikkhuni (Tỳ khưu ni Pháp Hỷ)
Đánh máy: Thái Dũng Trung
Mời bạn đọc đón xem bài Sáu: Quán niệm về vô thường