Trang chủ Nghiên cứu Phật Giáo Dưới Góc Độ Hiện Đại và Hậu Hiện Đại (tiếp...

Phật Giáo Dưới Góc Độ Hiện Đại và Hậu Hiện Đại (tiếp theo)

98

Kinh thật-kinh giả! 

Nguyên Thủy xem kinh tạng Pali là chính thống còn các kinh Đại Thừa chỉ là công trình chế tác của Nagarjuna, Thế Thân và Vô Trước. Vấn đề phức tạp về ngôn ngữ, chánh pháp được trao truyền bằng miệng trong 5 thế kỷ trước khi được ghi bằng chữ viết và cần đến 4 lần kiết tập (cổ điển) phản ảnh cho sự phân hóa về giáo điển và phương pháp hành trì, không biết ngũ bộ Nikayas hiện còn phản ảnh bao nhiêu phần trăm bộ kinh được trao truyền từ Ananda?  

Kinh điển Đại thừa còn có nhiều vấn đề hơn. Trong khi chỉ tạng Pali còn đủ ngũ bộ Nikayas, kinh Sanskrit ghi lại trực tiếp lời Phật dạy là bộ A-Hàm (Agama) thất tán ở Nepal, Tây Tạng và các nước Trung Á như Afghanistan và chỉ tồn tại trong các bản dịch Trung Quốc. Không những thất tán mà còn thất bản, vì không còn tiếng Sanskrit để đối chiếu và đã bị các…luận sư và người dịch thêm bớt. Luận án Tiến Sĩ của Thầy Minh Châu là công trình sưu tập và so sánh giữ Nikayas và Agamas là một công trình quý giá trong việc nối cầu giữa kinh điển tạng Sanskrit và Hán.  

Kinh điển Đại thừa ghi lại bằng ngôn ngữ Indic-Aryan được kết tập nhiều thế kỷ sau khi Đức Phật nhập diệt, không như tạng Pali ghi lại lời giảng dạy của Đức Phật qua trí nhớ của Ananda và các người tàng kinh ở các thế hệ sau. Đến khi chuyển qua tạng Hán, vấn đề còn trầm trọng hơn vì tăng già Trung Quốc không có truyền thống phân biệt giữa kinh và luận, tất cả đều được đưa vào Đại Tạng Kinh. Chưa hết, các công trình do các tổ Trung Hoa biên tập cũng được xem là kinh, thay vì luận. 

Lúc Phật giáo bắt đầu được truyền vào Trung Quốc, tư tưởng đạo Phật còn xa lạ và một số các kinh được biên tập để quần chúng dễ chấp nhận. Nếu các kinh này dung chứa tinh thần ‘Tam Pháp Ấn’ (Vô Thường, Vô Ngã và Nát Bàn), tiêu chuẩn căn bản để cứu xét cốt tủy Phật giáo, các ‘kinh’ này cũng đáng được trang trọng trong hệ Pali. Dù đặt nghi vấn đối với Kinh Phạm Võng, kinh Bồ Tát Địa, Kinh A Di Đà của Tịnh Độ, kinh mở đầu Pháp Hoa, các kinh liên hệ đến Thiền Tông, nhiều luận gia cho rằng dù các kinh này được biên tập từ Trung Quốc, hoặc không phải là bản dịch từ các kinh Phạn ngữ, nhưng vẫn phản ảnh ‘tinh thần’ Phật giáo và không phủ nhận giá trị của các kinh này.  

Ngoài các kinh biên tập tại Trung Quốc còn có kinh điển ngụy tác vì những mục đích và động cơ cá nhân, trong đó có cả ‘kiêu tăng’, ngã mạn xem mình ngang hàng với Phật Tổ. Những hiện tượng tương tự như thế đến ngày nay vẫn còn nhan nhãn, những giáo phái kiểu ‘Thiền nước lã’, ‘nhân điện’, ‘vô thượng sư’ để lừa phỉnh những thành phần Phật tử mê tín. Đây những ‘kinh’ không những không phản ảnh chút lời dạy của Đức Phật cũng như tinh thần Phật giáo (letter & spirit). Điều đáng ngại là không phải ai cũng thấy được tình trạng hỗn tạp này.  

Một sư cô tên Tăng Pháp (Seng-fa) sinh khoảng vào năm 489, tương truyền rằng từ lúc thơ ấu đã ‘ngồi thiền’ và thỉnh thoảng có lúc ‘xuất thần’, cô đã có thể đọc vanh vách nhiều bộ kinh, như thể cô đã tụng niệm từ lâu. Khi được yêu cầu lập lại, cô đọc lại không sai một chữ! Tiếng đồn đến tai Lương Vũ Đế (502-49), cô được mời lên chùa đọc kinh cho vua nghe. Các kinh của cô đọc là loại kinh ngụy tác, không phải kinh dịch thuật từ các kinh Sanskrit , mà do chính cô hay những người nào khác, đặt ra. Các kinh như Kinh Bảo Đỉnh (Pao Ting Ching), kinh Tịnh Độ, Kinh Chân Đỉnh (Cheng Ting Ching), bài tựa kinh Pháp Hoa (Fa-Hua Ching), kinh Dược Thảo (Yao-ts’ao ching). Một vài kinh dùng cùng tên với các kinh thứ thiệt, nhưng nội dung bị ngụy tạo, làm loạn tâm tín đồ. Sư cô Tăng Pháp lừa được cả vua, lúc 16 tuổi đã được mời đọc kinh cho vua nghe. Thảo nào mà khi gặp Lương Vũ Đế, Bồ Đề Đạt Ma đã giáng cho một gậy “Quách Nhiên Vô Thánh’. Gặp người tu mà chỉ muốn cầu công đức, ‘kiếp này’ đã làm vua và ‘kiếp sau’ còn muốn lên cõi trời, nên Bồ Đề Đạt Ma đã phải bỏ vào núi ngó vách Bích Nham 9 năm! Theo các cuộc nghiên cứu, Ni cô Tăng Pháp này đã biên tập 21 bộ kinh gồm 35 phẩm (Mizuno, sđd, tr 118-19

Khai Nguyên Lục là bản mục lục ghi tổng số các kinh dịch từ các nguyên bản tiếng Phạn là 1,076 kinh, có tất cả 392 kinh giả, 14 kinh khác có nguồn gốc đáng nghi ngờ. Số kinh bị nghi ngờ là giả mạo lên tới con số một phần ba, đã làm méo mó tinh thần đạo Phật. (Mizuno, sđd, tr 120) Nếu con số này chính xác, không biết nổ lực dịch đại tạng kinh Hán có cần thiết hay không? 

Khi Đạo Nguyên, người khởi nguyên dòng Thiền Tào Động, sang du học Trung Quốc dưới sự chỉ dạy của Như Thanh (1163-1228). Trong khi nghiên cứu kinh Thủ Lăng Nghiêm và kinh Viên Giác, Đạo Nguyên khám phá các kinh này có lai lịch đáng nghi ngờ và nội dung khác và thấp kém hơn các kinh Đại thừa khác. Làm sãi sợ Lăng Nghiêm! Nội dung của các kinh này tương tự như tư tưởng sáu phái triết học đương thời khi Đức Phật còn tại thế hơn là ‘tinh túy’ của Đạo Phật. Sư phụ của Đạo Nguyên đồng ý. Kinh Viên giác đã nhiều cao tăng đời Đường như Tông Mật (780-841), tổ thứ năm của phái Hoa Nghiêm và đời Tống trích dẫn nhiều lần. Thái độ của Đạo Nguyên phản ảnh lời Đức Phật trong kinh Kalama: “Đừng dựa vào truyền thống”. Tuy nhiên thái độ đối với kinh điển của Đạo Nguyên rất phóng khoáng. Bất cứ kinh hay luận nếu phản ảnh ‘tinh hoa’ của Đạo Phật đều là kinh. Không những thế, thiên hà đại địa, trăng sao, cây cỏ đất đá giúp con người ‘giác ngộ’ đều được xem là kinh. (Mizuno, sđd, tr 121) Ngọn lá nào, hòn sỏi nào cũng thuyết lá hoa kinh (Nhất Hạnh). Các định nghĩa thiếu tiêu chuẩn như thế có thể xuất hiện trong thiền ngữ và thơ văn, nhưng vẫn chưa trả lời được câu hỏi rốt ráo: Đức Phật dạy những gì? Đâu là cốt tuỷ của đạo Phật? 
 
Ai chính thống hơn ai?
 
Kinh A Hàm (Agamas) là kinh nguyên thủy ghi lại bằng Sanskit chỉ được biên tập 5 thế kỷ sau khi Đức Phật nhập niết bàn, và các kinh Đại Thừa được biên tập còn trễ hơn kinh Agamas và trên nguyên tắc phân chia giữa kinh và luận, các kinh Đại thừa phải được gọi là luận, như các nhân vật mở đầu đại thừa: Đại Thừa Khởi Tín Luận, A Tỳ Đạt Ma Câu Xá luận, Trung Quán luận.. . 

Phái Nguyên Thủy công kích kinh điển Đại thừa là công trình ‘sáng tác’ của Nagarjuna. Để phản công, các kinh Đại thừa thường đưa hình ảnh ma vương ‘đội lốt’ nhà sư (Nguyên thủy) ‘công kích’ Đại thừa. Như trong Kinh Bát Nhã (25 ngàn câu), một kinh điển Đại thừa do Kumarajiva dịch sang Hán tạng, trích lời ‘Ma vương’ nói với một Bồ tát: “ Những gì ông nghe không phải là lời dạy của Đức Thế Tôn những đã bị thêm thắt và ngụy tạo”. Kinh Bát Nhã tương truyền là do Nagarjuna ‘chế biến’ từ thế kỷ thứ Hai sau dương lịch, lên án những người chống đối Đại thừa là những ‘Ma tuần’ (Mizuno, sđd, tr 123). Sự tranh chấp giữa hai phe cực đoan gay gắt ở Ấn hơn là ở Trung Quốc vì phần lớn tăng già Trung Quốc đều chấp nhận kinh điển Đại thừa như phản ảnh lời dạy chân thực của đức Phật. 

Kinh điển được truyền miệng qua nhiều thế kỷ, thay đổi thêm bớt qua 4 kỳ kiết tập cổ điển, ghi lại bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau và khi qua Trung Quốc còn bị tùy tiện thay đổi hay ngụy tác, làm sao chắc kinh nào là cốt tuỷ của đạo Phật? Phần căn yếu nào được mọi tông phái, trong nhiều quốc gia và qua nhiều thời đại chấp nhận? Phần nào là khế lý và phần nào là khế cơ? Phần nào là tinh túy, phần nào là văn hóa tín ngưỡng địa phương? Để tránh rối loạn trong cách dùng từ ngữ, chúng tôi dùng Dharma (P-Dhamma) là phần khế lý và Phật giáo là phần khế cơ. Chúng tôi mượn hình ảnh lột võ hành khi theo học môn Ngữ Pháp Chức Năng (Functional Grammar) của Halliday, tuy là một hình ảnh bình dân nhưng nói theo triết học Tây Phương, đó là công tác De-Structurism? Re-Construction/ De-construction trong phong trào Hậu-hiện-đại. Dùng phương pháp phân tích nội dung (Content analysis) chúng tôi cố gắng tìm mẫu số chung của các tông phái và phật giáo tại mỗi quốc gia khác nhau để xác định Dharma- những nguyên tắc giáo lý và hành trì từ bài giảng đầu tiên của Đức Phật cho 5 anh em Kiều Trần Như tại Vườn Lộc Uyển. Mục đích chính là đi tìm phần spirit của Dharma, loại bớt phần hoa lá cành của văn hóa, ngôn ngữ và tín ngưỡng địa phương.  

Chỉ có hệ Pali là có đủ ngũ bộ kinh, gồm 5 Nikayas. 

1-     Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya), gồm 34 phẩm trong 3 phần
2-     Trung Bộ Kinh (Majjhima) gồm 153 phẩm
3-     Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya) gồm 56 chương, xép loại theo từng chủ đề
4-     Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara), các phẩm đánh số theo thứ tự các con số
5-     Tiểu bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) gồm 15 kinh không được xem là quan trọng như Pháp Cú, các bài kệ của tăng ni đã đạt quả Arhat. Các kinh này có nguồn gốc từ nhiều bộ phái trước khi Nguyên Thủy bị phân hóa, dù phần lớn vẫn là kinh Nguyên Thủy.  

Ngũ bộ tương đương được ghi bằng tiếng Phạn có tên là Agamas (A Hàm) được dịch sang chữ Hán. Agama có nghĩa là truyền thừa, thỉnh thoảng cũng được dùng trong hệ Pali, nhưng phần lớn hệ này dùng từ Nikayas. Nguyên bản tiếng Phạn đã mất dấu vì biến động xâm lăng của đạo quân Hồi-Thổ Nhĩ Kỳ và thỉnh thoảng tìm thấy vài nguyên bản Sanskrit, như Kinh Pháp Cú được hai học giả, một Pháp một Nga tìm thấy. 
Ngũ bộ theo hệ Hán tạng: 

1-     Trường A Hàm (Dirgha-agama (30 kinh), tương đương với Trường Bộ Kinh
2-     Trung A Hàm (Madhyamagama ) gồm 222 kinh, tương đương với Trung Bộ Kinh
3-     Tạp A Hàm (Samyuktagama) gồm 1,361 kinh, tương đương với Tương Ưng Bộ Kinh
4-     Tăng Nhất A Hàm (Ekottarragama) gồm 481 kinh tương đương với Tăng Chi Bộ Kinh
5-     Ksudraka- Agama tương đương với Tiểu Bộ
 
Các kinh điển Đại Thừa 

Có năm dòng trong kinh đìển đại thừa:

1-     Bát Nhã (Prajnaparamita-Perfection of Wisdom), có ít nhất 30 bản dài ngắn khác nhau, từ vài dòng cho đến cả ngàn trang. Chủ đề chính về Không (Sunyata- Voidness), tự xem là dòng tâm linh thâm sâu nhất. Gần đây các nhà học giả-dịch giả Tây Phương gọi Bát Nhã là The Mother of All Mothers. Kinh Kim Cương là bản rút gọn của dòng này.
2-     Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka- Flower Ornament) có 3 kinh lớn, một bản có tên là Gandavyuha (World Array Sutra)
3-     Thập Địa Luận (Dasabhumika- Bodhisattva stages) nói về các giai đoạn đạt quả vị Bồ Tát
4-     Duy Ma Cật (Vimalakirti) nhấn đến vai trò của cư sĩ bồ tát Duy Ma Cật
5-     Kinh Đại Niết Bàn (Nirvana-Parinirvana) ghi lại những ngày cuối cùng của Đức Phật trước khi nhập nát bàn
6-     Pháp Hoa (Sadharma pundarila- The Lotus Sutra) Kinh Lăng Già (Lankavatara) và Kinh A Di Đà hay Vô Lượng Thọ (Sukhavati-vyuha)
 
Trong khi mức độ khả tín của Ngũ Bộ khá cao dù trong quá trình từ truyền miệng đến giai đoạn ghi lại kinh bằng chữ viết thế nào cũng có chuyện tam sao thất bản, mức độ khả tín của kinh điển Đại thừa trầm trọng hơn. Không có bằng chứng nào cho thấy các Kinh Đại thừa biên tập hay lưu truyền ở Ấn. Ngay cả giới luật cũng nhiều sai khác vì lúc khởi nguyên, đoàn thể tăng già Đại thừa chưa được thành lập nên giới luật chưa cần thiết. Chỉ sau này khi các đoàn thể tăng già được thành lập như ở đại học Nalanda, giới luật mới được đặt ra. 

Các kinh điển Đại thừa không biết là do ai biên tập và dĩ nhiên là bị thêm bớt qua nhiều thế kỷ và nội dung thường rất khác nhau. Có nhiều điểm khác biệt giữa kinh Bát Nhã (Perfection of Wisdom) 25 ngàn câu và Bát Nhã 6 ngàn câu và kinh Kim Cương. Các kinh Pháp Hoa (The Lotus Sutra), Hoa Nghiêm (Flower Garland Sutra) và Kinh Vô Thọ Lượng Quang (The Sutra of Infinite Light) khác nhau về tư tưởng và phong cách diễn đạt. Giữa Yogacara và Trung Quán cũng thế: không như trong Ngũ Bộ Kinh, đâu là mối nhất thống của tư tưởng Đại thừa? Trong hệ Hán Tạng, sư phân biệt giữa kinh và luận rất lộn xộn. Tác phẩm của các nhân vật khởi xướng Đại thừa ở Ấn thì được xếp vào luận như Đại Thừa Khởi Tín Luận, Trung Quán Luận, A Tỳ Đạt Ma Câu Xá luận. Tác phẩm của sơ tổ Thiền Tông, Đạt Ma thì gọi là Tuyệt Quán luận trong khi Lục tổ, người Trung Quốc, thì gọi là Pháp Bảo Đàn kinh! Các nhà Buddhologists Trung Quốc coi bộ cũng kỳ thị dữ! Các giới luật của Đại Thừa Trung Quốc không dựa trên giới luật Nguyên Thủy mà dựa vào Kinh Phạm Võng, một kinh xem là kinh biên tập ở Trung Quốc. Một số tăng Trung Quốc như Huệ Tạo, T’an Le,and Seng Yuan chi trích các kinh Bát Nhã 2,500 câu, Kinh Pháp Hoa và Kinh Đại Niết Bàn nhưng các vị sư này bị bịt miệng ngay. Một học giả Nhật, Tominaga Nakamoto (1715-1746) chịu hảnh hưởng của triết gia Vương Dương Minh, nghiên cứu Phật Giáo nguyên thủy trong kinh Agamas và các kinh Đại Thừa, cho rằng các kinh này được biên tập ít nhất trong một thời gian 500 năm sau khi Đức Phật nhập diệt và không phản ảnh lời dạy trực tiếp và chân thực của Đức Phật (Mizuno, sđd, tr 127)

Nội dung kinh hệ Pali và Đại Thừa cũng rất khác nhau. Trong hệ Pali người ta chứng kiến Đức Phật lịch sử giảng pháp trong hoàn cảnh xã hội, văn hóa, lịch sử và cả thiên nhiên của miền đông-bắc quốc gia Ấn vào thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên. Trong kinh Đức Phật đề cập đến tình hình chánh trị và kinh tế của một vài tiểu quốc. Một vài bài pháp thoại phản ảnh phong tục, tập quán, tư tưởng các tôn giáo và triết lý cùng thời. Người ta cũng nhận ra trang phục, thực phẩm, mùa màng, nhà cửa, kiến trúc, nghề nghiệp của dân chúng vân vân…Thiên nhiên cũng được vẽ lại một cach trung thực, rừng núi hùng vĩ, mùa khô, mùa mưa, cây cỏ thực vật, chim chóc và ngay cả…côn trùng.  

Không có thành phần nào trong xã hội mà Phật không thu nhận làm đệ tử: khất sĩ, nhà tu khổ hạnh, vua, hoàng tử, quan chức triều đình, thương gia, nông dân, triết gia, côn đồ ăn cướp, gái giang hồ và cả dân hạ tiện Untouchables. Đọc kinh hệ Pali chúng ta thấy được bức tranh sống động của xã hội Ấn lúc bấy giờ.  
Trong các kinh Đại Thừa, hoàn cảnh xã hội văn hóa Ấn chỉ còn là một bức tranh mờ nhạt. Phật không còn thuyết pháp cho những đệ tử bình thường trong xã hội Ấn hay trên địa cầu này, mà ở các thế giới khác, các cung trời mỹ lệ, nhã nhạc réo rắt, mùi hương diễm tuyệt, như ở những nơi ngàn lẻ một đêm mà chúng ta không còn biết đó là đâu. Có thể đó là tam thiên đại thiên thế giới- thế giới ba ngàn- ở một vũ trụ khác- hay nói theo các nhà Vật lý hiện đại- một vũ trụ song song, trong đó có nhiều đức Phật và Bồ Tát khác cũng đang thuyết pháp. Đức Phật không còn là một người hành khất, quần áo xốc xếch, cầm bình bát đi khất thực, mà một Đức Phật uy nghi ngồi trên toà sen, hào quang chiếu rọi đến bao nhiêu thế giới, chung quanh có bao nhiêu Bồ tát đứng hầu. Trong khi Đức Phật thuyết pháp, có bao hiện tượng mầu nhiệm xảy ra: trái đất rung chuyển, mưa hoa từ trời rơi xuống. Đó là thế giới đầy ánh sáng rực rỡ- vô lượng thọ quang- đầy mầu sắc, một thế giới tuyệt đẹp không bút mực nào tả xiết. Đó là thế giới mầu nhiệm, bí mật, vượt ngoài cái tâm bình thường, như những chuyện chỉ xảy ra trong các phim khoa học giả tưởng- Đẹp như trong cơn mơ- những cơn mơ không thực. (Sangharakshita, 1995, tr 22-23

Có thể vì cơn ‘pháp nạn’ do quân Hồi Giáo- Thổ Nhĩ Kỳ trong đó có 10 ngàn tăng già bị giết, phần lớn kinh sách bị đốt, lưu tán qua Nepal, Tây Tạng, các quốc Trung Á như Afghanistan, theo con đường lụa qua Trung Quốc, không còn dấu tích các bản kinh Đại thừa nào còn ở Ấn. Một vài bộ kinh được Nagarjuna nhắc đến, là bằng chứng sót lại cho thấy các kinh này có lưu truyền ở Ấn trước thời Nagarjuna. Muốn nghiên cứu Đại thừa phải qua ngã Hán tạng, nhưng kinh điển nào thực sự dịch từ Sanskrit, kinh nào biên tập ở Trung Quốc và kinh nào do các tăng ni ngã mạn như sư cô Tăng Pháp ngụy tác?  
 
Hai ông Hộ Pháp Tây Phương  
 
Những biến động lịch sử cận đại và hiện đại đã đưa đến những kết quả bất ngờ cho sự phát triển của Phật Giáo. Các Hội Thừa Sai của Thiên Chúa và Tin Lành muốn dựa vào chế độ thực dân để bứng gốc rễ của người dân bị trị và hy vọng một ngày đó, nóc chuông cao vút của nhà thờ sẽ thay thế những mái chùa khiêm tốn dưới các tàng cây. Họ đã thành công ở Nam Mỹ, Phi Luật Tân, các đảo ở Á Châu Thái Bình Dương, nhưng quá trình cải đạo tập thể ở các nước theo đạo Phật có nhiều biến cố bất ngờ. Ở Ấn, Miến Điện, Tích Lan và các nước Phật Giáo Tiểu thừa, tư tưởng Phật giáo đã mê hoặc các nhà nghiên cứu văn hoá và tôn giáo và chính họ là những người hộ pháp tiên phong. Như trường hợp của hai nhà hộ pháp, một Mỹ, Đại tá Olcott và một Anh, Chistmas Humphreys, đã vận động phong trào Phật Giáo hồi sinh ở Đông Á. 

Đại tá Olcott, người đã tạo ra là cờ Phật Giáo quốc tế, lá cờ đã là động cơ đưa đến cuộc vận động chống chánh quyền Ngô Đình Diệm vào năm 1963, đã thuyết phục các nước theo Phật Giáo chấp nhận lòng tin căn bản của Phật tử. Năm 1891 ông đã soạn thảo bảng tổng kết 14 niềm tin căn bản của Phật Tử (Fundamental Buddhistic Beliefs) . Bản tuyên ngôn 14 điểm này cuối cùng được các đại diện Phật Giáo Nhật, Miến Điện, Sri Lanka (Ceylon) và sau này được các Lạt Ma của Phật Giáo Mông Cổ chấp nhận. Các nhà chấn hưng Phật giáo lúc đó phần lớn liên hệ đến Thông Thiên Học, nên nghiêng về tư tưởng thần bí của Mật Tông. Bản phụ đính Tín Lý Phật Giáo do Alcott soạn thảo đuợc xếp đặt lộn xộn, lập đi lập lại một cách cần thiết và không theo một trình tự hay phương pháp nào rõ ràng. Sau đây là bản tóm lược: 

1-     Phật giáo là tôn giáo dạy tín đồ khoan dung, nhẫn nhục và từ bi với tất cả mọi loài hữu tình
2-     Thế giới là quá trình biến hóa theo luật tự nhiên, không do một Tạo Hóa nào tạo dựng ra.
3-     Luật nhân quả là luật tự nhiên và Phật là người giác ngộ luật này.
4-     Đức Phật lịch sử là Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni) sinh cách đây chừng 2500 năm.
5-     Vô minh là do ham muốn, ham muốn đưa đến tái sinh và đau khổ. Muốn chấm dứt vòng đau khổ thì diệt lòng ham muốn.
6-     Vô minh vì nghĩ tái sinh là cần thiết.
7-     Cần thực tập từ bi, trí tuệ và dập tắt dục vọng nếu muốn giải thoát
8-     Tình trạng an lạc tâm linh tối hậu là nát bàn
9-     Căn bản của con đường thoát khổ là thực hành tứ diệu đế.
10-Chính định và khả năng giác ngộ tiềm tàng trong tất cả mọi người.
11-Đạo đức chủ yếu là: Tránh làm điều ác, thực hành điều thiện, thanh lọc tâm ý
12-Thế giới tuân theo luật nhân quả, thường gọi là Karma
13-Tuân giữ 5 giới cấm

Phật giáo rất thích hợp với tinh thần khoa học và không chấp nhận mê tín. Đức Phật dạy không nên hoàn toàn tin vào truyền thống, hiền giả, sách vỡ, phong tục cho đến khi nào thấy hợp với trí tuệ.  

Năm 1945 Hội Phật Học Luân Đôn đề nghị Humphreys soạn ra một danh sách những nguyên tắc căn bản đưa ra thảo luận với tất cả tông phái. Humphreys tiết lộ là ông đã không đọc các đề nghị của Đại tá Alcott trước khi soạn thảo nguyên tắc 12 điểm trước một hội nghị tông phái Phật giáo. Khó khăn lớn nhất lúc bấy giờ là làm sao thuyết phục tông Tịnh Độ Nhật ( Shin Buddhism- Tân Phật Giáo) chấp thuận 12 nguyên tắc này, trong đó có nguyên tắc tự lực.
1-     Con đường hành trì là con đường tự lực, trực tiếp và cá nhân
2-     Luật vô thường
3-     Vô ngã
4-     Nghiệp và nhân quả
5-     Từ bi là ‘luật của các luật’
6-     Tứ diệu đế
7-     Bát chánh đạo
8-     Không chấp nhận ‘Đấng’ tạo hóa. Nát bàn là trạng tái tịch tĩnh an lạc, có thể thực hiện ở trên trái đất và ngay tại đời này. Khả năng giác ngộ (Phật tính) tiềm tàng trong mỗi chúng sinh.
9-     Phật đã đi trên con đường Trung Đạo; muốn giác ngộ cũng phải theo con đường này
10-Thiền quán- Chánh định để đạt được tuệ giác (Định- Huệ)
11-       Tự lực. Cầu nguyện chư Phật hay bất cứ tha lực nào khác đều vô ích. Phật không phải là người có quyền lực siêu nhiên- chỉ là một vị Thầy dẫn đường.
12-Đạo Phật không tiêu cực, bi quan, trốn đời. Đây là một lối sống, hệ thống tư tưởng, thực nghiệm, không giáo điều, khế hợp với khoa học, triết lý, tâm lý đạo đức. Con người duy nhất làm chủ định mệnh của mình.   
Bản tổng kê 12 nguyên tắc này đã được đại diện Phật Giáo Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc,Tích Lan, Tây Tạng, những thành viên chủ yếu của Phật Giáo Thế giới. Điều thú vị là tông Tịnh Độ Nhật (Shin Buddhism- Tân Phật Giáo) qua vị sư trú trì chùa Nishi- Hongwanji, đồng hội chủ tông phái Shin, đồng ý chấp thuận.    
 
Sách tham khảo: 
 
Humphreys, Christmas. Buddhism. Penguin Books, Sydney, 1981.
Kogen Mizuno. Buddhist Sutras, Origin, Development and Transmission, Kosei Publishing Co, Tokyo, 1982.
Lopez, Donald S. Critical Terms for the Study of Buddhism. The University of Chicago Oress, Chicago, 2005.
Nyanaponika Thera & Bhikkhu Bodhi. Numerical Discourses of the Buddha, Altamira Press, London, 1999.
Sangharakshita. A Survey of Buddhism. Its Doctrines and Methods Through the Ages. Windhorse Publications, Glasgow, 1993.
Sangharakshita. Transformation Self & World. Windhorse, Birmingham, 1995.
 
 Nguồn: Chuyển Luân Online