Phải tự biết ta để biết người

    Do đó, việc tự biết mình quả là điều quan trọng. Việc này không chỉ cần tri thức, phương pháp khoa học mà còn đòi hỏi sự trung thực và dũng cảm để chiến thắng sự thủ chấp về cái ngã của mình.


    1. Tại không ít cuộc hội thảo về văn xã khi Việt Nam gia nhập WTO, không ít thức giả bày tỏ sự lo lắng về nguy cơ mất bản sắc và lên tiếng/đặt thành vấn đề rằng phải ra sức bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc trước cơn bão toàn cầu hóa – một xu thế được định danh không dè dặt là cuộc “đại xâm lược văn hóa”.


    Chúng ta không nghi ngờ gì những thiện chí đó, nhưng ở thời điểm này mà còn đặt vấn đề theo cung cách “ai thắng ai” theo kiểu truyền thống thì việc bàn về sự hội nhập dẫn tới đâu thì không nói thêm cũng đã rõ. Rõ ràng là toàn cầu hóa có thể tạo ra nguy cơ thống trị văn hóa, nhưng mặt khác tạo nên cơ hội làm giàu tính đa dạng về văn hóa mà lịch sử chưa từng chứng kiến. Quy luật đó cũng chẳng phải là điều gì mới, nay khác xưa là ở cường độ: sự tiến bộ về kỹ thuật làm gia tăng tốc độ khuếch tán văn hóa và canh tân khoa học.


    Giả dụ, lấy truyền thống mà nói thì khi Lạc Long Quân kết hôn với Âu Cơ thì văn hóa đã là một kết hợp thể văn hóa totem rắn/rồng và văn hóa lấy totem chim làm vật tổ (Kể từ đó lịch sử văn hóa là lịch sử giao lưu văn hóa). Tiến trình lịch sử xứ ta, nói một cách đại thể, là tiến trình từ trung du xuống đồng bằng, từ Bắc vào Nam…


    Ở mỗi tọa độ lịch sử – địa lý, văn hóa luôn phát triển và vận hành theo quy luật tổng hợp mới cũ và tích hợp nội ngoại. Đặc tính cơ bản của mọi nền văn hóa là đều có một hệ thống giá trị kết dính các thành viên của cộng đồng xã hội đó, tạo nên sự ổn định, thống nhất chung.


    Song đồng thời, văn hóa là một thực thể động, tức có tính khả biến, liên tục đổi thay và các giá trị văn hóa là thứ có thể học tập được – tức văn hóa được chuyển giao qua việc học hỏi hơn là được di truyền từ việc vay mượn hay do sự khuếch tán. Bản sắc văn hóa không là thứ “nhất thành bất biến”.


    Do đó nói đến bản sắc là nói đến sự sâu rễ bền gốc, đồng thời cũng là sự chuyển biến đến cái mới tiến bộ, cái phổ quát. Đậm đà bản sắc và tiên tiến là hai mặt của chỉnh thể văn hóa, là hai thuộc tính của một vấn đề. Chính vì vậy, chỉ một mực đề cao bản sắc, cảnh báo nguy cơ mất bản sắc là sự định hướng lệch lạc, mất cân đối trong nỗ lực phát triển – thậm chí bộc lộ xu hướng bảo thủ và tạo nên những rào cản đối với khát vọng hội nhập.


    2. Thiên hướng bài tha không phải là hiện tượng mới, khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa mà là nếp nghĩ “thâm căn cố đế”.


    Là một dân tộc luôn phải chống lại các thế lực ngoại bang xâm lược nên cái nhìn, nếp nghĩ về văn hóa ở xứ ta luôn đặt trên một định đề kép: Bản sắc dân tộc luôn được đồng nhất với tính văn hóa, theo đó văn hóa không thể tách biệt với bản thân chủ nghĩa dân tộc, thậm chí lấy chủ nghĩa dân tộc trung tâm (chủ nghĩa vị chủng: ethnocentrism) làm tư tưởng về văn hóa, tức luôn xiển dương cái đặc thù, lấy đó làm đối tượng với những gì ngoại nhập từ sự tiếp biến, giao lưu.


    Điều này đã làm cho tiến trình hội nhập là những bước đi ngập ngừng hay bị đứt gãy, mặc dù có không ít cơ hội. Xa xưa nhất là “khu kinh tế mở” của hai Phật tử Việt đầu tiên là Chử Đồng Tử và Tiên Dung (Lĩnh Nam chích quái: Tiên Dung cùng Chử “mở bến chợ, lập phố xá cùng dân buôn bán, dần dần thành cái chợ lớn. Phú thương ngoại quốc tới buôn bán thờ Tiên Dung, Đồng Tử làm chủ”) bị vua Hùng “cho rằng con gái làm loạn” đem quân tới đánh: chỉ trong một đêm tất cả thành đầm nước mênh mông: Nhất dạ trạch. Sau đó, là Phố Hiến, Hội An… rồi chủ trương “bế quan” của nhà Nguyễn là những ví dụ lịch sử khác.


    Ông vua nhà Nguyễn, tư duy trên cơ sở nền “văn hóa đèn dầu” nên tất nhiên không sao thừa nhận việc cái đèn điện dốc ngược có thể cháy sáng được và theo đó, cũng khó mà chấp nhận các đề xuất canh tân của Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ…


    Rồi đến khi vũ khí và sức mạnh của phương Tây đã trở thành thế lực áp đảo thì lại nêu quan điểm rằng: Văn hóa phương Tây chỉ là sự ưu thắng về cơ xảo và chọn đó làm “dụng”, lấy truyền thống của mình là “thể”. Việc phân chia chỉnh thể văn hóa thành “dụng” và “thể” như vậy đã dẫn tới đâu thì nay cũng đã khá rõ ràng. Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản là những ví dụ nhãn tiền nay có thể tham chiếu.


    Hiện đại hóa bao gồm hiện đại hóa văn hóa; hiện đại hóa văn hóa bao gồm đặc điểm văn hóa dân tộc. Một nền văn hóa được coi là hiện đại khi giá trị hiện đại trở thành chủ đạo, thành chuẩn định hướng cho hệ thống các chuẩn mực chứ không phải giá trị hiện đại và truyền thống tồn tại bên nhau, chung lộn “thể” này “dụng” kia với nhau.


    Như vậy điều quan yếu là xây dựng một hệ thống chuẩn mực mới phù hợp với quyền lợi lâu dài của dân tộc và nỗ lực làm cho hệ chuẩn hiện đại/tiên tiến trở thành yếu tố định hướng cho phát triển, cuốn hút truyền thống theo con đường sáng đó.


    Rõ ràng là phải hiện đại hóa đất nước theo con đường riêng của mình, phù hợp với điều kiện của mình và cũng phải biết rằng không thể tìm một con đường phát triển thực sự tốt đẹp sau cánh cửa truyền thống.


    Trong thực tế lịch sử, xu hướng hư vô chủ nghĩa về truyền thống (được gọi “chủ nghĩa sa mạc văn hóa”) cho rằng hiện đại và truyền thống là bất tương dung đã dẫn đến việc triệt hạ truyền thống. Còn gần đây lại ngã qua cực ngược lại: nhiều học giả xứ ta xuất phát từ quan điểm lịch sử, thượng tôn truyền thống văn hóa thường tỏ ra sự ham chuộng việc xây dựng các lý thuyết căn cứ vào sử liệu để diễn giải những quyết sách hiện hành và dự đoán tương lai.


    Nói cách khác, mọi việc đang diễn ra theo chiều hướng từ bất cập sang thái quá. Ở đây cũng cần dè chừng hiện tượng nhân danh truyền thống để đầu cơ văn hóa hay lợi dụng văn hóa để phát mãi tiền nhân.


    Sự nhập nhằng đó sẽ dẫn đến việc chúng ta bị giam cầm trong lòng bản sắc/truyền thống: mê mẩn với truyền thống như một tín đồ thuần thành hơn là nỗ lực tiếp cận truyền thống theo con đường nghiên cứu phát triển.


    Hậu quả trước mắt là rơi vào xu hướng hoài cổ và về lâu dài là mối quan tâm mà chúng ta mong muốn – sự quan tâm có tính nhân văn và tiến bộ – sẽ không bắt rễ rộng rãi trong xã hội, tức không đáp ứng được quyền lợi văn hóa lâu dài của dân tộc, bởi vì cái điều thường xảy ra cho các dân tộc yếu kém là thói quen hay quên bẵng đi rằng bảo thủ là đồng nghĩa với trì trệ suy yếu.


    Cách nhìn thiển cận của chủ nghĩa dân tộc trung tâm mâu thuẫn với triển vọng của nỗ lực hội nhập đang không ngừng mở rộng về không gian và thời gian.






    Bai viet xuan Mau Ti - click here to read