Nồi bánh chưng xưa

    Khoảng 28, 29 tết, bà tôi kêu mẹ vô chợ mua lấy một thúng gạo nếp loại thơm nhất, mua thêm đậu xanh, thịt heo, lá dong và những sợi dây lạt mềm thật dai và thật dẻo.


    Mẹ tôi mang tất cả về rồi đem vo gạo, đậu xanh cho thật sạch. Bố tôi mang về những tàu lá dừa để làm khuôn bánh. Bà chuẩn bị được một ít lá giềng xanh, đem giã nhỏ vắt lấy nước để rưới vào gạo nếp cho xanh bánh. Khi tất cả đã được chuẩn bị xong, cả nhà tôi quây quần bên một cái mâm tròn lớn, hăm hở bắt tay vào gói bánh.


    Hồi ấy tôi hãy còn là một con nhóc nhỏ xíu, chỉ có thể phụ giúp bố mẹ bằng cách cắt đầu đuôi những chiếc lá dong cho đẹp và gọn lại. Tôi cũng bắt chước bà hí hoáy lấy khăn chùi lá dong, lá dừa cho thật sạch. Bố mẹ tôi tra gạo, đậu xanh và thịt heo vào khuôn bánh, tỉ mẩn gói ghém một cách cẩn thận. Tôi sung sướng cầm chiếc bánh đầu tiên trên tay, chiếc bánh chưng xinh xắn, nằng nặng, “sản phẩm” của cả gia đình cùng làm.


    Gói bánh xong, mẹ tôi chất hết bánh vào cái nồi lớn, đổ nước xâm xấp. Nồi được kê trên bếp củi, mẹ tôi chất những thanh củi khô vào rồi bắt đầu nhóm lửa. Thời gian luộc bánh khá lâu, có khi phải mười mấy tiếng nấu liên tục bánh mới chín.


    Sáng 30 tết, bố tôi xếp bánh đã luộc thành hàng dài, lấy những thanh gỗ nén thật chặt lại cho ráo hết nước. Sau đó bà tôi xếp bánh vào đĩa, đặt trên mâm quả tử rồi mới thắp nhang đón ông vải về.


    Nhiều năm liền nồi bánh chưng là thứ không thể thiếu trong ngày tết của gia đình tôi. Nó trở thành hồn vía của ngày tết, kết nối những người trong gia đình lại gần nhau hơn. Giờ đây khi cuộc sống tất bật cuốn người ta đi, nồi bánh chưng đã bị lùi trong ký ức. Nhìn những chiếc bánh chưng xinh xắn, vuông vức được đặt ở nhà hàng, lòng tôi lại rưng rưng nhớ nồi bánh chưng xưa…