Mỗi thi thấy chiếc xe tang nào đi qua, tôi lại không thể quên được câu chuyện trong kinh Phật kể về một người mẹ đáng thương, ôm xác đứa con xinh xắn của mình chạy khắp nơi để tìm thuốc hồi sinh. Khi nghe nói Đức Phật có phương thuốc làm cho người chết sống lại, người mẹ đã đem xác con mình đến tận nơi để cầu xin sự cứu giúp. Đức Phật không từ chối mà cũng không có ý định gạt ngay sự mất mát bi thương ra khỏi lòng người mẹ. Người chỉ có một yêu cầu, nếu người phụ nữ ấy có thể tìm được những hạt cải trong một gia đình chưa từng có người thân nào qua đời, thì hãy mang những hạt cải đó về, Người sẽ dùng chính những hạt cải ấy để làm cho đứa bé sống lại. Người mẹ mừng rỡ ôm xác con đi tìm khắp trong làng ngoài thôn, nhưng trớ trêu, không một gia đình nào có thứ hạt cải ấy, vì không ít thì nhiều trong đời có ai không một lần phải chứng kiến cảnh mất người thân. Người phụ nữ đã nhanh chóng giác ngộ ra sự thật đó. Sau khi chôn xác đứa con bé bỏng của mình xong, bà đã đến đảnh lễ và quy y với Đức Phật.
Mỗi khi thấy chiếc xe tang nào đi qua, tôi lại nhớ đến câu thở của Đỗ Trung Quân: “… Ngả nón đứng chào xe tang qua phố. Ai mất mẹ sao lòng ta hoảng sợ. Ngày tháng kia bao lâu nữa của mình…”. Đó là tâm trạng của một người con sợ chứng kiến cảnh một ngày kia mình sẽ không còn mẹ, sẽ mồ côi, sẽ bơ vơ… Nhưng mồ côi, bơ vơ có ý nghĩa gì bằng khi một ngày kia người con không được chăm sóc mẹ, không được chia sẻ những vui buồn trong đời mẹ, hay chỉ đơn giản là không được chào hỏi mẹ mỗi lần đi – về, không được nhìn thấy mẹ vui khi ăn một món thật ngon do tự tay mình nấu, mặc một chiếc áo thật đẹp do tự tay mình mua… Bản thân tôi phải sống xa mẹ, nên tự hổ thẹn khi không làm được những điều đơn giản nhất. Trong cuộc sống tha hương bận rộn của mình, tôi chỉ biết hàng đêm dành mấy mươi phút để niệm Phật là nhớ nghĩ về mẹ. Mỗi khi tôi vấp ngã, nghĩ đế mẹ là tôi lại tự mình đứng dậy. Mẹ là Phật. Mẹ thương con như Phật thương chúng sinh. Biết vậy mà tôi vẫn có tâm trạng hoảng hốt như nhà thơ kia.
Mỗi khi thấy chiếc xe tang nào đi qua, tôi lại nghĩ đến những tiếng kêu đớn đau bật ra thành lời, hay còn nghẹn lại ở trong lòng những người vợ khóc chồng. Và đâu đó, tiếng khóc vợ bi ai ngày nào của Phạm Thái (1777-1813) trở về: “Ta hăm hở chí trai hồ thỉ, bởi đợi tình cho nấn ná nhân duyên; mình long đong thân gái liễu bồ, vì giận phận hóa ngang tàng tính mệnh. Cho đến nỗi hoa rơi lá rụng, ngọc nát châu chìm, chua xót cũng vì đâu, não ruột cũng vì đâu? Nay qua nấm cỏ xanh, tưởng người phận bạc, sụt sùi hai hàng tình lệ, giãi bày một bức khốc văn, đốt xuống tuyền đài tỏ cùng nương tử”. Tiếng khóc thương của người xưa vẫn còn cho tôi một chút niềm tin rằng, lời đồn về những quý ông thời hiện đại, vợ tuy còn đó, môi vẫn đỏ, má vẫn hồng mà đã hay lòng đổi dạ, không phải là phổ biến.
Mỗi khi thấy chiếc xe tang nào đi qua, tôi lại nhớ đến lời chiêu hồn tha thiết của cụ Nguyễn Du: “Mỗi người một nghiệp khác nhau. Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?”. Cái nghiệp mà cụ nói ở đây là cái nghiệp tự tạo: thiện có ác có, xấu có tốt có. Tuy khác nhau là như thế nhưng chết đi thì đều bi thương cả. Cụ chiêu hồn từ những người “mũ cao áo rộng”, lính thú chinh chiến, đến những người “buôn son bán phấn”, người đi ở, người cô thân, người vô tình chìm sông lạc suối, người có đẻ không nuôi… Và những cảnh đời khác nhau đầy bi thương, trắc ẩn ấy, đã đưa chữ nghiệp của Nguyễn Du bao trùm lên mọi thân phận trong xã hội. Nhưng cụ không lên án điều gì cả. Cụ chỉ đặt câu hỏi để người đời sau tự trả lời: “Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”, “Kiếp nào cới được oan tình ấy đi?”, “Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?”…
Tôi cũng như bao nhiều người khác, đều có một lý lịch về nghề nghiệp…, nhưng tôi chỉ biết chăm với “nghề” mà quên đi “nghiệp” đang tạo của mình. Hằng ngày, đọc những trang báo đầy những cảnh giết nhau một cách tàn nhẫn mà không khỏi băn khoăn về lòng nhân trong cuộc sống. Đó là hệ quả của sự dồn tụ biết bao nhiêu cộng nghiệp, biệt nghiệp. Nhưng tôi vẫn thảng thốt, không biết lấy nghiệp nào để lý giải khi 5 cô bé tuổi còn chuồn chuồn kim đã rủ nhau cùng nhảy sông tự tử. Và một lần nữa, câu hỏi của cụ Nguyễn Du từ mấy trăm năm qua vẫn còn đang bỏ ngỏ… Ai cũng muốn trở thành người hiểu được Tố Như. Nhưng phải chăng khóc Tố Như chính là chuyện khóc đời, thương đời? Tôi chỉ biết theo cụ niệm tiếng nam mô để hóa giải những bàng hoàng trong tinh thần, để có nhiều hơn niềm tin yêu ở mỗi con người.
Mỗi khi thấy chiếc xe tang nào đi qua, tôi lại đem cái nhìn bình đẳng của cụ Nguyễn Du mà niệm Phật rặn mình. Trong xe tang ấy, có người đang viết lên lịch sử cuộc đời mình, có người bị đời ruồng bỏ, lãng quên; có người đã từng đầm ấm hạnh phúc, có người tủi phận cô đơn; có người ác, có người hiền… Nhưng họ đều đã có nơi để đi về theo nghiệp riêng của mình. Bất kể những chiếc xe tang nào đi qua, người nằm đó, có tôn giáo, tín ngưỡng hay không, tôi đều dành cho họ một câu niệm Phật. Có những điều tẻ nhạt, có những sự thú vị nơi mỗi cái chết, nhưng đó đều là những đối thoại không dứt với riêng tôi về thân phận con người. Tôi nghĩ rằng, cái chết đến với con người cũng không phải là chuyền hoàn toàn đau khổ, vì chỉ có ở đó, mọi toan tích ích kỷ, mọi hờn ghen, thù hận, mội công danh, tiền bạc mới trở nên vô nghĩa…
Nhưng cũng mỗi khi thấy xe tang qua phố, tôi lại vô tình chạm phải những ánh mắt không vui nhìn vào đoàn người đang đi, xem đó như là hành vi làm kẹt giao thông. Đằng sau con mắt ấy là gì…, tôi không hiểu. Có lẽ nào, sự bận rộn của cuộc sống mưu sinh đang chia tách con người ra thành từng mảng, đến nỗi không thể nhường người chết đi qua, dù chỉ mất có 5 phút đoạn đường. Cuộc sống còn rất nhiều liên đới với nhau, mà ở đó, nghĩa tử luôn là nghĩa tận, và bởi cái chết còn cho ta hiểu thêm về tình bằng hữu, tình hàng xóm láng giềng. Xin hãy ngả nón tiễn biệt nhau, không phải với ánh mắt của những người xa lạ, vô tình.
Cũng như những lần khác, hôm nay tôi lại “ngả nón đứng chào xe tang qua phố” và thêm một tiếng niệm Phật, một lời nguyện cầu, mong người ra đi sẽ bỏ qua tất cả vui buồn trong kiếp sống mà để lòng thanh thản. Nhìn chiếc xe tang dần xa khuất, tôi chợt hiểu chúng ta không phải là những người tù của bản thân mình. Cuộc sống tốt đẹp còn ở mãi ngoài kia…