Trang chủ Nghiên cứu Nguyên nhân nhà sư Nhật Bản lấy vợ

Nguyên nhân nhà sư Nhật Bản lấy vợ

193

Trong tâm trí tôi, nhiều tự viện ở Nhật Bản có gia thất là chuyện bình thường, không có gì là bất ngờ. Từ khi còn nhỏ tôi đã chơi chung và rất thân cận với con cháu của trụ trì chùa, cho đến khi lớn lên tôi mới hiểu Phật giáo các nước khác rất nhiều so với Phật giáo Nhật Bản. Họ có cái nhìn không mấy thiện cảm và thường dùng những từ đại ý như "hòa thượng phong hoa" để chỉ trích.

Trong khoảng thời gian từ năm 1993 đến 1994, tôi đến Koyashan để học tập tại Phật học viện của Chân Ngôn tông, khi ấy tôi có cơ hội được sống chung với con cháu của các vị trụ trì trong chùa và tìm hiểu về sự truyền thừa từ trụ trì theo phương thức đó.

Tuy nhiên đối với vấn đề tại sao tổ tiên họ lại lập gia đình và truyền tự như vậy, họ chỉ giữ im lặng không nói cụ thể, từ đó tôi cũng hiểu được phần nào nguyên nhân họ xả bỏ giới Tỳ kheo để sống cuộc sống gia đình bình thường.    

Trong thời gian tôi học ở Phật học viện, tôi có quen thân với con cháu của chùa, song không ai muốn giải thích lý do tại sao tổ tiên của họ lại làm như vậy, cho đến khi tôi bắt đầu theo học cao học và tự tìm tư liệu về sự ẩn khuất của vấn đề lịch sử này.

Vào thời điểm ấy trong sách vở không có ghi chép bất cứ thông tin gì về nguyên nhân của vấn đề này. Trong thời gian tìm kiếm thì tôi đã phát hiện một vài tài liệu liên quan đến Thánh nhân Thân Loan (1173 ~1262) khai sơn Tịnh độ Chân tông về việc kết hôn lập gia đình, thì có rất nhiều bài viết ca ngợi hưởng ứng và được đa số người dân Nhật Bản thời bấy giờ tán đồng việc làm này.

Thánh nhân Thân Loan đã thông qua việc kết hôn lập gia đình để thực tiễn hóa Phật giáo trong tầng lớp bình dân và họ cho rằng không có gì là không tốt? Song Phật giáo Nhật Bản từ cận đại về trước, ngoài Tịnh độ Chân tông có quan điểm đó ra, thì 12 tông còn lại (Pháp Tướng, Hoa Nghiêm, Luật, Thiên Thai, Chân Ngôn, Tịnh Độ, Thời, Viên Thông Niệm Phật, Nhật Liên, Lâm Tế, Tào Động và Hoàng Bá tông) đều nghiêm cấm, cho dù lý do cao thượng nào đi nữa Tỳ kheo vẫn không được kết hôn.

Đến thời đại Giang Hộ (Edo 1603~1867), Phật giáo trở thành quốc giáo. Tất cả mọi người dân là tín đồ của một ngôi chùa, lúc này tất cả các tự viện trở thành nơi đăng ký hộ khẩu hộ tịch, ký thác hài cốt, bài vị, bảo quản gia phổ của tín đồ. Do các công việc đó, nơi tự viện cần có rất nhiều người chuyên môn quản lý lĩnh vực này.

Khi đó, các vị Sa di nhỏ tuổi xuất gia trong các ngôi chùa ở quê hương, học tập Kinh sách cơ bản, đa số rời xa chùa mình đi đến Kinh đô học tập, nơi các trường học do các tông phái lập nên, có rất nhiều giáo sư giỏi và có nền kinh tế ổn định. Lúc này, Nhật Bản không có chiến tranh, văn hóa phát triển, một đất nước thái bình. Kết quả là tốt xấu cùng tồn tại, ở thủ đô Osaka và Đông Kinh, nơi chốn phồn hoa đô thị, các Sa di mới học Phật nhỏ tuổi bất hạnh đã bị vướng phải sự hấp dẫn của chốn hồng trần, phạm phải giới điều nhà Phật.

Bởi vì lúc này Phật giáo là quốc giáo, nên các Tỳ kheo phạm giới đều bị tự viện và pháp luật của quốc gia xử phạt. Nửa thế kỷ XIX về trước, các người đó bị đưa ra đảo Hachijo! Đây là hòn đảo ở phía nam của Kinh đô, không thể trồng lúa chỉ trồng được khoai lang, cư dân sống rất cực khổ. Các vị đó bị đày ra hòn đảo này, họ có học thức nên hay viết sách và soạn sách giáo khoa, đa số họ kết hôn với người vùng này sinh con đẻ cháu, họ làm việc cho các cơ quan nhà nước và dạy học ở các trường, cuộc sống của họ tương đối ổn định, và tất cả người dân đều đồng tình với họ.  

Sau năm 1840, bởi vì người đi học phạm giới đó quá nhiều, chính phủ và Tăng đoàn không có cách nào quản thúc được nữa. Cuối cùng, sau khi học xong có người đã đi cùng với người mình kết hôn về thăm cố hương và mang theo con nhỏ nữa. Thầy của họ khi ấy vô cùng khó chịu, song cuối cùng phải thu nhận những người đệ tử bất hiếu này.

Vì công việc quản lý hộ khẩu hộ tịch của tự viện không thể đình chỉ, nên họ phải vào làm công tác này để phục vụ quê hương. Kết quả, Nhật Bản có rất nhiều hình ảnh tự viện ở quê sau chùa phơi đồ trẻ em. Tuy vậy, nhưng họ vẫn là những người làm rất tốt công tác quản lý hộ khẩu hộ tịch, phần mộ và bài vị tổ tiên.

Đến năm 1868, trải qua một giai đoạn cách mạng, chính phủ mới của Nhật Bản cho đến hôm nay, họ đối với Phật giáo không còn nhiệt tình như trước, Phật giáo đã không còn địa vị quốc giáo. Song tuyệt đại đa số người dân Nhật Bản đều là tín đồ Phật giáo, họ đối với sự tín phụng cung kính tự viện giống như trước đây, các tôn giáo khác cố tình và đem rất nhiều tiền của để cải đạo người dân, nhưng hầu như không có kết quả gì, chỉ có truyền đạo ở các nơi dân tộc thiểu số, vì mọi người từ trí thức đến bình dân đều tin hiểu sâu vào giáo lý nhân duyên nghiệp báo, và tự viện cũng là nơi bảo hộ cho phần mộ bài vị và gia phổ của người dân.