Nguyễn Huy Hồng lúc nào cũng mang dáng dấp tất bật lão nông. Sinh năm 1927, cầm tinh con mèo Đinh Mão, ông bằng tuổi cha tôi. Chưa từng thấy ông nhàn. Như thể lời sấm của Xuân Diệu vang rền luôn giục giã ông: “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ”, bởi không khéo “tình non sắp già rồi”. Tình non của ông suốt đời xanh…
|
Một mình thương nhớ rối nước đồng quê, không chỉ với tâm thế cả đời thủy chung nghiên cứu múa rối dân gian Việt, mà còn đa đoan với tư thái nghệ nhân, theo chuẩn UNESCO: báu – vật – sống – có – thể – là – cuối – cùng – của – rối – nước – cổ – truyền – Việt. Chính ông, giống như báu – vật – sống – nghệ nhân hát xẩm Hà Thị Cầu, mang trong người giọng hát xẩm “vàng mười”, rất có thể bị thất truyền vì cả hai đều đang lắt lay như đèn trước gió…
Trăng lên đỉnh núi trăng tà
Mình yêu ta thật hay là yêu chơi?
Từng ăn dầm nằm dề trong các làng nghề rối Thái Bình hàng chục năm điền dã, ông Hồng đã sưu tầm, tinh lọc vài trăm trò rối cổ nằm sâu trong các phường rối gia truyền…
Năm ngoái, hai thầy trò tôi – dân báo chí, và hai thầy trò ông – dân nghiên cứu, trình diễn rối nước, phóng hai xe máy về Đồng Vàng, xuất phát từ nhà ông (phố Bùi Xương Trạch, gần ngã tư Sở). Ngôi nhà bốn tầng, cơ ngơi vườn cây, ao cá, vốn là nơi đóng đô đầu tiên của bảo tàng rối nước tại gia, khi ông về hưu. Cách đây dăm sáu năm, bỗng ông đùng đùng chuyển tuốt tuột bảo tàng này về làng Đồng Vàng, thành lập bảo tàng mới khép kín ở đó, trên đất thổ cư gia tộc mà ông thừa hưởng. Ông bảo: “Tôi nhất định phải trả rối nước về với cảnh quan sinh thái vốn có sau lũy tre làng”.
Suốt từ đầu làng, ông xăm xắn đi trước, chào hỏi oang oang người quen kẻ thuộc. Đường làng quanh co, gạch rêu phong sít sao dựng đứng theo lối cổ. Rẽ ngoặt sau bụi tre rậm, băng qua mặt ao ken đặc bèo, chúng tôi dừng trước cánh cổng sắt có chiếc khóa to hoen gỉ. Một con chó lông vàng xám nhảy cỡn sủa vang. Ông Hồng lạch xạch mở cửa, cười cười: “Cu cậu mừng quá, đói quá!”. Con chó chồm lên người chủ, rối rít vẫy đuôi. Ông lật đật bước vào mảnh sân um tùm. Cây nhãn cổ thụ đổ bóng râm một nửa khu vườn hình chữ nhật, vây quanh sân là hai ngôi nhà hai tầng đâu mặt vào nhau. Nhà ngang một tầng nối giữa, nơi ông đặt bàn thờ gia tiên. Cả sân lá xanh um, vươn cao mấy bụi xương rồng và thấp thoáng mảnh ao tròn. Ông vội vã xúc cám Con Cò rắc xuống ao, không quên xúc cho con chó. Cá quẫy tranh ăn đen mặt ao. Tôi buột miệng: “Cụ cho cả chó mèo cá cùng ăn cám à?”. Ông đáp ngay: “Không ăn Con Cò thì tôi làm sao có thời giờ mà nấu nướng. Đói thì cho gì chả ăn. Đến tôi còn ăn cháo hàng chục năm. Hai gói cháo ăn liền đổ nước sôi mỗi ngày, khỏi nhai, nuốt cho nhanh…”.
Ăn đã thế, mặc thì nhì nhằng, chẳng mấy để ý vẻ ngoài, nhưng hễ ai đụng đến rối nước thì mắt ông sáng rực, chuyện nở như cơm gạo vàng. Cần tài liệu, cần kể chuyện điền dã rối cạn, rối nước khắp miền đất nước, cần chứng thực rối cổ nguyên bản ruộng đồng Việt Nam… ông sẵn lòng. Ông là người đầu tiên lập bản đồ rối nước Việt, nương theo bản đồ địa lý Việt. Đặc biệt, ông chỉ dẫn từng làng rối cổ truyền Thái Bình, với ao – sân – khấu – nước từng phường rối cổ. Năm 1984, lần đầu rối nước Việt chinh phục các nước Tây Âu: Pháp, Ý, Đức…, ông hoan hỉ xem, góp ý cùng nghệ nhân đem chuông đi đánh nước người, sửa sang, sàng lọc, “bảo đảm bằng vàng” 16 trò rối nước nguyên thủy nhất, rồi hài lòng, sung sướng đưa đón phường rối nước Nguyên Xá Thái Bình cứ y như người nhà.
Ông yêu rối nước hồn nhiên như trăng kia lúc ngoi lên đỉnh núi, khi lặn xuống chân đồi. Nhưng lần nào gặp ông cũng nghe ông ngâm nga chỉ có một câu: Trăng lên đỉnh núi trăng tà/ Mình yêu ta thật hay là yêu chơi? Khổ thế, ông nào có yêu chơi được!
Một mình ra ngõ ngóng trông,
tìm không thấy tình là không thấy tình…
Ông thường lẻ loi xót thương những con rối đồng quê hàng chục năm nay vẫn nằm yên ở làng Đồng Vàng đơn độc, càng lúc càng ít người lui tới, càng lúc càng phai bạc hồn vía, và ông càng lúc càng cảm thấy đã gần ngày… về với tổ tiên. Cười buồn, ông bảo: “Tôi chỉ sợ không kịp”… Không kịp gì thưa ông? “Không kịp tận mắt nhìn rối nước được UNESCO công nhận là tài sản phi vật thể của thế giới”…
Ông như cây trúc đứng một mình đầu ngõ, vời vợi ngóng trông, hi vọng, cả tuyệt vọng chống xâm thực, một mực giữ linh hồn đồng quê của rối nước Việt cổ truyền.
Có điều, ông đã quá cực đoan. Và quá cô đơn.
Quan rối nước – Ảnh tư liệu Nhà hát Múa rối T.Ư |
Cấy lúa |
Mời trầu – rối làng Yên, Hà Tây |
Đi cấy – rối Đồng Ngư, Thuận Thành, Bắc Ninh |
Khách du lịch nước ngoài tập điều khiển con rối |
Múa Bát tiên – rối Hồng Phong, Hải Dương – Ảnh: Nguyễn Quang Hưng |
Cuối năm 2002, sau lần đầu xuống Đồng Vàng, chưa khi nào chúng tôi được xem con rối sống đời sống sinh động vốn có trong chiếc ao của ông. Cho đến giờ, hàng trăm con rối vẫn đứng ngồi ngổn ngang, gần như bị quên lãng, bị giam cầm trong kho bụi phủ, nhện giăng ngang dọc, sơn phai son thếp… với niềm xót xa cô quạnh của chính ông chủ. Nhưng có một lần ông niềm nở đưa khách lên gác ba, xem phòng lưu niệm hình ảnh, kỷ vật về rối nước Việt giao lưu với thế giới và 50 năm gắn bó với nghệ thuật này, do ông đích thân lưu giữ. Có tấm hình phóng to: Cụ Hồ thăm Nhà hát Rối VN năm 1961. Khi ấy ông rất trẻ, cười tươi, cùng các nghệ sĩ vây quanh Cụ Hồ. Huân chương, huy chương kháng chiến, giải thưởng nhà nước 2007 về văn học nghệ thuật cho ba tác phẩm của ông: Nghệ thuật múa rối Việt Nam, Rối nước Việt Nam, Nghệ thuật múa rối nước Thái Bình, ap phich rối Việt ở Nhật, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Mỹ…
Tuyệt không có bằng sắc nào về đại học nghệ thuật, ngoài “chức tước” ông thích: chủ tịch UNIMA VN – Hiệp hội Múa rối thế giới). Bằng nửa thế kỷ cần lao, ông tự thực chứng là chuyên gia số một về nghiên cứu và thực hành rối nước Việt. Ông hướng dẫn ngon lành suốt bốn năm luận án tiến sĩ duy nhất về rối nước Việt ở VN (và thế giới cho đến hôm nay) viết bằng tiếng Anh của cô Margot A. Jones, bảo vệ thành công năm 1996 ở ĐH Ha waii.
Thế nhưng, Tìm hiểu nghệ thuật biên kịch rối – cuốn thứ ba in bằng tiền giải thưởng nhà nước của ông (60 triệu đồng), in xong 2007, chưa kịp phát hành ông đã lập tức đem cả 300 cuốn về Đồng Vàng đắp chiếu để đấy, “vì không thích cách người ta đọc và chế biến sách của tôi. Thà để yên vậy còn hơn”. Để yên vậy nên ông vẫn còn 7.000 trang bản thảo xếp chồng chất trong ngôi nhà của mình.
Tôi không biết nói thế nào để ông bơn bớt cực đoan trong niềm yêu mến rối nước Việt hết sức thiên lệch và cô quạnh của ông. Chỉ biết thi thoảng san sẻ cùng ông mơ ước: “Giá Nhà nước giúp chừng chục tỉ đồng, tôi sẽ dùng chút sức tàn vực dậy tại đây một sân khấu rối nước sống động, sẽ làm thư viện to nhất ở đây về rối Việt, và sẽ mở lớp đào tạo nghề rối ở đây… Rồi rất nhiều trẻ con, người lớn sẽ đổ về đây mà xem rối nước”.
Nhưng giờ đây giấc mơ ấy có lẽ vẫn chỉ thuộc về một mình ông. Niềm vui bé nhỏ ông vừa loan báo: “Vụ nước ngập Hà Nội, nước tràn ao nhà tôi, cá trốn hết ra đồng, may mà không dâng đến cửa kho chứa con rối. Hú vía”. Tôi thầm nghĩ, biết đâu các con rối lại buồn vì đã không thỏa nỗi nhớ mong… gặp nước, vốn là môi trường sinh thái hồn nhiên của chúng. Chúng ở kho quá lâu và dường như quá mỏi mệt. Nhưng tôi đã không dám cả gan bày tỏ. Ông chỉ còn bấy nhiêu làm của để dành. Của tin còn một chút này, nếu lỡ lời sợ làm ông tổn thương. Vì ông chính là hiển thị báu vật sống duy nhất còn lại của rối nước Việt. Ông vừa mới nói như khóc đấy thôi: “Tôi chết thì hết ai thương rối nước. Vừa rồi Hội Sân khấu cho người xuống ngỏ ý mua bảo tàng. Tôi bảo 50 năm chắt chiu tôi mới có được bảo tàng này. Giá 50 tỉ cho 50 năm. Mua không?”. Tôi biết ông đùa, hàm nghĩa phũ phàng, cay đắng: Có ai đủ tiền mua được giấc mơ của ông?…
Trong thế giới ngây thơ và xao động Những con rối – nhân vật chính của lễ hội ao làng đồng quê Việt ngày xưa vốn câm nín. Chúng được chế tác từ gỗ, thuận theo mỹ học điêu khắc đình làng, như những mảnh văng bắn tươi vui của nghệ nhân dân gian. Khi hoàn tất tượng thờ Phật, thần cho nghi lễ thờ cúng đình chùa, nhân trạng thái hoan lạc sáng tạo, họ tiện tay gọt đẽo chơi chơi những con rối ngộ nghĩnh. Và nhân thể biến thành trò chơi trên mặt ao, vốn hơi bị nhiều trong làng quê Việt châu thổ sông Hồng. Khi con rối hoàn thành, chúng đã ngập tràn hứng khởi của chủ nhân nền văn hóa lúa nước. Chúng bừng sống khi được nghệ nhân dân gian (kín đáo nấp kỹ sau tấm mành sẫm của nhà thủy đình) điều khiển, với tâm hồn quê mùa chất phác, hồn nhiên, vui tươi cười giòn, hơi hoang dại. Ai đó đưa người thật vào thế giới nước ấy, xâm hại thân phận những con rối câm lặng, không chịu đứng sau điều khiển mà phá lệ cổ “xông vào” diễn cùng chúng, theo ông Nguyễn Huy Hồng, chắc chắn là cử chỉ thô lậu bậc nhất sẽ làm tan nát, bầm dập tả tơi cái thế giới ngây thơ và xao động ấy. Chỉ con rối và con rối, không thể ai khác ngoài chúng, hiển hiện trên mặt nước ao làng, cảnh quan cũ càng, cổ điển nhất của nghệ thuật rối nước cổ truyền. Nước và nhà thủy đình là nơi cư trú thân mật ấm áp, lung linh phản quang, in bóng lộng lẫy vẻ đẹp sơn son thếp vàng của con rối, làm nền “xao động” cho con rối. Nhất là khi chúng thoắt biến thoắt hiện trong những trò diễn ngoạn mục trên mặt nước, bằng điều khiển của bàn tay nghệ nhân nông dân khuất mặt khuất người sau tấm mành. Đến hết trò họ mới e lệ và e dè, ướt át và sung sướng lội ra chào khán giả, người ướt ròng trong tấm áo manh quần màu nâu đất. Ông Hồng cho biết có phường rối cổ từng sắp đặt vài trăm con rối dưới lòng ao, chịu điều khiển của nghệ nhân mà không con nào, trò nào lại vướng víu, cản trở trò nào. Một chuỗi các trò lẻ (Tễu ra trò, Đi cấy, Đi cày, Gặt lúa, Nhi đồng thổi sáo, Chăn vịt, Đánh cáo, Rước Trạng, Vợ chồng đánh cá, Bát tiên…) cứ thế liên tiếp lên xuống nhịp nhàng trên mặt ao. |