Và kể từ khi chùa Khai Quốc (Mở Nước) được dựng nên, vị hoàng đế và nền văn hoá tự chủ đầu tiên đã khẳng định Đức Phật ở trong tâm mình… Đức Phật của dân tộc Việt Nam.
Dẫu chưa có nhiều tư liệu cung cấp đầy đủ những thông tin về ngày Lễ Phật đản, nhưng thông qua mối liên hệ và quy mô của những lễ hội được ghi chép trong sử sách, chúng ta có thể tìm ra sự dung hội trong đời sống tín ngưỡng tâm linh của người Việt. Từ đó xây dựng dù chỉ là khái quát bức tranh về ngày Lễ Phật đản trong một mối liên hệ đặc thù với văn hoá bản địa. Sâu rộng hơn cả chính là các lễ hội Phật giáo được nằm trong sự bảo trợ đầy thành kính của nhiều vị vua Phật tử. Có thể nói, ở điểm này, nhiều nhà lãnh đạo đã bộc lộ tầm nhìn bao quát, sáng suốt trong việc ổn định chính trị, cũng như đáp ứng được khát vọng tâm linh, thể hiện trách nhiệm của người Phật tử trước dân tộc, tiến tới xây dựng một xã hội nhân nghĩa, thuần hậu trong sự khác biệt, ước thúc lẫn nhau của ba hệ tư tưởng Phật – Đạo – Nho đương thời, mà ở đó, Phật giáo luôn giữ vai trò trung tâm, hoà giải.
Đại Việt sử ký toàn thư có viết, vào đời vua Lý Thánh Tông, năm Nhâm Tý, Thần Vũ 1072: “Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 8, vua xem lễ tắm Phật”. Còn vua Lý Nhân Tông: “Mùa hạ, ngày mồng 8 tháng 4, xa giá ngự đến, đặt lễ cầu phúc, bày nghi thức tắm Phật, hàng năm lấy làm lệ thường”…
Trong Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh, Nguyễn Công Bật viết về không khí đầy sinh động của ngày Lễ Phật đản như sau: “Nhà vua tôn sùng đạo Phật, hâm mộ thắng nhân. Mở chùa Diên Hựu ở tại vườn Tây. Dấu vết theo quy mô thuở trước, lo toan cho thánh ý ngày nay. Đào ao thơm Linh Chiểu, giữa ao chồi lên một cột đá, trên cột đá có một đoá hoa sen nghìn cánh xoè ra. Trên hoa dựng ngôi đền đỏ sẫm, trong đền đặt pho tượng sắc vàng. Ngoài ao có hành lang bao bọc. Ngoài hành lang lại có ao Bích Trì, bắc cầu cong để đi lại. Ở sân trước cầu, hai bên tả hữu xây tháp báu lưu ly. Để mồng một hàng tháng, để mùa xuân hàng năm, nhà vua thân ngồi xe ngọc, đến mở tiệc chay. Hương hoa bày ra hình thức kỳ an, bồn chậu đặt lễ nghi tắm Phật. Trang sức tướng tinh thành cho năm chúng, hoặc hở vai tiến thoái nhịp nhàng, tạo đội ngũ thiên vương ở bốn phương, nâng khí cụ bồi hồi nhảy múa. Tinh cần chẳng trễ, kính phụng nào ngơi. Vì vậy mà huyền tạo linh thông, đều cùng phù hộ”…
Việc nhân dân, triều thần quy ngưỡng về ngày Phật đản và đích thân nhà vua làm chủ lễ cho thấy Phật đản thực sự là một ngày quốc lễ. Và trong không khí của ngày quốc lễ đó, các vị vua không chỉ thể hiện lòng thành kính nhất tâm quy Phật, thể hiện tinh thần từ bi, khoan thứ mà còn gửi gắm tâm nguyện trị quốc an dân, giữ vững nền độc lập dân tộc. Điều này nói lên sự thâm nhập của đạo Phật và tận nguồn cội của văn hoá Việt Nam, đến mức không thể phân chia được.
Đơn cử vào ngày Lễ khánh thành tháp Sùng Thiện Diên Linh, hoàng đế đã đích thân tham dự: “Khói trầm đàn như mây toả khắp sơn khê, bóng cờ phướn như ráng phô đầy muôn ngả. Chuông trống vang lừng, khánh tiu rộn rã. Phía trước xe mây Tam bảo, đằng sau kiệu báu thánh hoàng. Dốc nghiêng xanh tía sáu cung, về hết trẻ già muôn nước. Điện hoa vắt ngang phía trước, chùa Phật mở rộng bên trong. Hội Tăng Ni trai khiết, diễn giác đế chân kinh. Hoàng đế nghiêm trang, đọc kệ đoạn cúi đầu tạ lễ; cung nga khép lép, nghe kinh xong dâng sữa múa ca. Thổi cơm chay trắng muốt, thiết khách đói qua đường; phát tiền quý ùn ùn, cấp dân nghèo khắp chốn. U hiển đều về, thiên long cùng đến. Đem lực công tối thượng, phúc đức vô lường, ca ngợi hoàng cương bền vững như trời đất; cầu mong bảo vật vằng vặc như trăng sao. Sớm sinh thái tử, nối mãi mệnh trời. Mong gốc ngành ngàn thuở, cầu xã tắc muôn năm. Cỏ lướt nhiều phương, quỳ nghiêng muôn nước. Thần dân yêu mến, tổ khảo khuông phù. Thần đạo giúp ngầm, trời người nâng đỡ” (Văn bia Tháp Sùng Thiện Diên Linh).
Sự mô tả này cho thấy, chính tinh thần và tâm nguyện dựa trên nền tảng Phật pháp đã có sức vận động lớn lao sức dân vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Vì thể hiện mạnh mẽ lòng tự hào dân tộc nên đã quy tập được các tư tưởng khác nhau phục vụ cho công cuộc chung. Đặc biệt, các vua Lý đều nhân dịp mở hội Phật mà đại xá thiên hạ, tha tội cho các tù nhân, chu cấp tiền, lương cho dân nghèo… Điều đó càng tăng thêm ý nghĩa và sức sống của Phật pháp. Đến nỗi sử nho Ngô Sĩ Liên phải viết: “Nhân Tông thường nhân việc mở hội Phật mà tha cho người hết tội, là không phải lẽ, nhưng mà còn mượn tiếng hội Phật. Còn như vua Thần Tông thì không có việc gì mà cũng tha bổng”. Lòng nhân ấy đã hướng dẫn hành vi của nhiều nhà lãnh đạo, nên đã tránh cho dân tộc không đi vào con đường chiến tranh hận thù, huynh đệ tương tàn, mà có một đời sống tâm linh phong phú, vì thế lịch sử đã minh chứng rất rõ, thời đại Lý – Trần là thời đại mà con người sống khoan dung, nhân hiếu, thuần hậu và giàu bản sắc hơn hết.
Chúng ta đã từng có một ngày quốc lễ trang nghiêm, hoành tráng, nô nức, hân hoan… như thế. Nhưng vì chiến tranh, vì những nhận thức sai lầm về văn hoá trong một thời gian dài, lễ Phật đản nhiều lúc đã bị thu hẹp không gian văn hoá, tâm linh, và vì nhiều lý do khác nhau, đến nay vẫn chưa có nhiều dấu hiệu phục hồi thực sự. Thế nên, chỉ có tinh thần khoan dung tư tưởng và đời sống giàu bản sắc của nghìn năm về trước mới đủ cơ sở để chúng ta vượt qua mọi giới hạn của nhận thức, mọi thái độ hẹp hòi trong văn hoá, người Phật tử mới có thể “gặp Đức Phật trong lòng dân tộc”, bởi không ít lần chúng ta đã bỏ quên Đức Phật của dân tộc mình, của tâm hồn mình. Như vậy, ngày lễ Phật đản không chỉ là ngày chúng ta tỏ lòng tôn kính Đức Phật, tri ân tổ tiên đã làm rạng danh non sông mà còn là ngày chúng ta tìm lại cho chính mình một ngôn ngữ của yêu thương và hoà bình.