Tuy là vấn đề “nhạy cảm”, nhưng thực ra, dù có nhiều ý kiến khác biệt, đây cũng là vấn đề dễ “thông qua”, tuy không nhất trí, nếu ta nhìn vào toàn cảnh sinh hoạt Phật giáo Việt Nam trong thực tế.
Nếu viện dẫn kinh luật, như bài viết “Có nên ca hát không?” của tác giả Bình Anson, thì từ kinh và luật, nhất là Phật giáo nguyên thủy, thì đã có ngay câu trả lời.
Nhưng, trước hết là thực tế, sau đó là ý kiến của một số tăng ni Phật tử, mà phần lớn cũng được nhắc lại qua các ý kiến phản hồi bài viết trên, thì lại cho thấy một quan điểm khác đang được triển khai. Điều này không cưỡng lại được.
Nếu lấy giới luật mà xét, thì có những giới cấm, tuy vẫn còn được đọc tụng, nhắc nhở, răn dạy, nhưng trong thực tế đã gần như không còn được áp dụng nữa.
Cách đây khoảng 20 năm, vẫn còn một số chư tôn đức Nam tông Việt Nam tuyệt đối không chạm đến tiền bạc, nói chi đến việc giữ tiền bạc trong người. Tuy nhiên, số vị giữ nghiêm điều này càng ít dần. Vì xu thế của thời đại buộc phải như vậy.
Giới luật căn bản hình thành trong sinh hoạt tăng đoàn thời đức Phật. Nhưng đối chiếu sinh hoạt tăng đoàn được mô tả trong kinh điển với sinh hoạt tăng đoàn hiện nay, chúng ta thấy một khoảng cách lớn và diễn tiến theo hướng khoảng cách ngày càng lớn hơn nữa. Việc điều chỉnh như trở lại đúng tuyệt đối như trong kinh, luật là không thể.
Vì vậy, dẫn kinh luật để chúng ta cùng tham khảo, như tác giả Bình Anson, là điều đúng, nên làm, nhưng tìm sự nhất trí, áp dụng được trong thực tế là điều không thể.
Điều có thể làm là cùng thảo luận để tìm một hướng đi thích hợp đối với hoạt động ca nhạc trong Phật giáo dễ đạt được sự tán thành số đông hơn cả, để từ đó, có những quan điểm chung, dễ thực hiện, hầu đem lại kết quả tốt nhất có thể, và cố gắng đến mức cao nhất việc hạn chế những biểu hiện trái với tinh thần giới luật.
Chúng tôi xin trình bày một số ý kiến riêng đối với vấn đề ca nhạc trong Phật giáo như sau:
1) Vì nội dung giới luật đã rõ ràng như vậy, thì sinh hoạt ca nhạc trong Phật giáo dù có, về quan điểm, cũng chỉ nên xem là việc bất đắc dĩ, buộc phải chấp nhận, như là một phương tiện, một hoạt động tùy thuận.
Cần phải luôn ý thức được rằng, giới luật đối với hoạt động ca nhạc không phải là điều có thể tùy tiện sửa chữa, mà chỉ có thể nhìn nhận theo hướng là điều chẳng đặng đừng, linh động.
Không thể “quên” giới luật đi, để qua một bên, không bàn tới. Mà khi tiến hành hoạt động ca nhạc trong đạo Phật, thì phải tâm niệm ý thức phương tiện, vẫn là không đúng với giới luật.
Trong thời đại đức Phật, đức Phật đã có quan điểm như vậy, cụ thể, rõ ràng như vậy. Điều đó phải luôn được nghĩ đến, nếu tu hành chân chính theo đúng đạo Phật.
2) Thiết tưởng nên có một cái nhìn rạch ròi về âm nhạc, cái nào là âm nhạc truyền thống, và gắn liền với truyền thống Phật giáo Việt Nam, cái nào là âm nhạc phương Tây hiện đại, chỉ mới có ảnh hưởng đối với Phật giáo Việt Nam trong chỉ non một thế kỷ nay. Từ đó, có cách ứng xử thích hợp.
Không nên gộp chung ca nhạc truyền thống gồm tán tụng chung vào với ca nhạc hiện đại, xem chỉ là một, để nhìn nhận sử dụng như nhau.
Trong âm nhạc hiện đại, cũng có nhiều bộ phận. Vì thế càng nhìn nhận chi tiết càng tốt, xác lập những khoảng cách khác nhau đối với đạo Phật, để có cách sự dụng khai thác thích hợp cho từng thể loại
3) Ca nhạc được nói đến nhiều hiện nay trong đạo Phật được hiểu là ca nhạc phương Tây, với hoạt động biểu hiện cụ thể là trình diễn cho người xem (hoàn toàn khác với tán tụng). Vấn đề được tập trung ở lĩnh vực này.
4) Điều hiển nhiên là ở đây có một mâu thuẫn lớn: âm nhạc phương Tây hiện đại hiện phổ biến tuyệt đối, được ưa chuộng tuyệt đối. Trong khi đó, Phật giáo Việt Nam không hề có truyền thống liên hệ với âm nhạc phương Tây, từ cổ điển đến hiện đại.
Tuy nhiên, vì sự phổ biến của nó, vì tác dụng của nó, Phật giáo Việt Nam hiện đại đã khai thác âm nhạc phương Tây hiện đại phục vụ hoạt động hoằng pháp.
Quá trình này có thể được xem là bắt đầu phát triển vào thập niên 1950.
Tuy nhiên, vẫn còn một số tổ chức, hệ phái không chấp nhận quá trình trên, cả Bắc tông, Nam tông.
Phật giáo Nam tông đặt nặng việc hành trì giới luật, cấm cửa âm nhạc là việc đương nhiên.
Còn phía Bắc tông, là phái Lục Hòa Tăng (sau này được biết với tên gọi Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam), đại đa số từ phía Tăng già và Ni giới Khất sĩ, và một bộ phận tăng ni Phật tử trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chịu ảnh hưởng sâu đậm từ truyền thống.
Một số chùa, tự viện còn cấm xem TV (cả từ trước đến sau năm 1975), nói chi đến việc tổ chức biểu diễn ca nhạc.
Không có truyền thống, việc ứng dụng khai thác không thuận lợi. Đối với Phật giáo Việt Nam, ca nhạc hiện đại còn có những vấn đề lớn khi tính đến việc khai thác, sử dụng nó.
Âm nhạc phương Tây dùng trong hoạt động thờ phượng đã gắn liền với một số tôn giáo khác, vì vậy đưa âm nhạc thờ phượng vào Phật giáo không khác gì làm cái việc đồng hóa Phật giáo với các tôn giáo phương Tây.
Một ví dụ là bản “Trầm hương đốt”, vẫn được cố gắng dùng để thay thế bài “Tán Lư Hương” (lời ca bài “Trầm hương đốt” là bản dịch thoát lời văn “Lư hương sạ nhiệt/Pháp giới mông huân”…).
Cố gắng này không thành công, trường hợp hát bài “Trầm hương đốt” mở đầu các khóa lễ rất hiếm, vì việc hát đối với người theo đạo Phật, phần lớn là người lớn tuổi, không dễ. Hơn nữa, “Trầm hương đốt”, với phong cách thể hiện trang nghiêm, nghe ra giống nhạc nhà thờ!
Thành ra, việc đưa âm nhạc thờ phượng vào Phật giáo bế tắc, chỉ tới chừng đó, trong mấy chục năm.
Gần đây, một vị thượng tọa ở Bà Rịa Vũng Tàu, với năng khiếu và tài năng âm nhạc, đã cố gắng làm một bước đột phá, với những sáng tác mới mang tính chất âm nhạc thờ phượng, hình thành những bài hát thờ phượng, lấy nội dung là những bài tán Phật, sám văn. Những bài nhạc như thế phải nói là hay.
Nhưng việc ứng dụng rộng rãi là không thể, vì đại đa số tăng ni Phật tử không biết hát, không được đào tạo để hát, và không có truyền thống hát.
Vì thế, nếu trước kia chưa có nhạc sĩ giỏi, chưa thể triển khai âm nhạc thờ phượng trong Phật giáo, thì tới khi có nhạc sĩ sáng tác giỏi, sáng tác nhiều bài hát, vẫn không thể triển khai.
Hình thức giống như hợp xướng, đồng ca mà chúng ta thấy ở đoàn Làng Mai về thăm Việt Nam cũng không dễ dàng gì triển khai rộng rãi được, cũng vì lý do như trên, dù rằng không cần tới piano.
Như vậy, vấn đề dần dần rõ ra. Do không có truyền thống, nên giữa Phật giáo Việt Nam và ca nhạc hiện đại có một khoảng cách tồn tại đương nhiên và khách quan, cũng như không thể vượt qua nó.
Chúng ta cần phải ghi nhận điều này để lấy đó làm cơ sở giải quyết các vấn đề tiếp theo.
5) Phật giáo không thể sử dụng âm nhạc phương Tây trong hoạt động thờ phượng, thì chỉ còn hướng, là sinh hoạt ca nhạc trong biểu diễn và sinh hoạt ca nhạc cộng đồng trong hoạt động thanh thiếu niên.
Trong mục này, chúng ta xét trước đến hoạt động ca nhạc biểu diễn trong Phật giáo.
Xin nói trước đến những khó khăn khi triển khai. Ca nhạc biểu diễn chính là điểm tương kỵ với kinh điển, vì có người trình diễn và thưởng thức. Nó khác với ca nhạc thờ phượng ở chỗ trong ca nhạc thờ phượng, dàn đồng ca chỉ là đại diện cho cử tọa (tức những người hành lễ, số đông không thể hát), không phải là đơn vị trình diễn chuyên nghiệp.
Hoạt động biểu diễn âm nhạc có khác với tinh thần dùng kỹ nhạc cúng dường, vì có người thưởng thức, có khán giả (chúng ta có thể hình dung điều này qua việc so sánh dàn nhạc và dàn hợp xướng trình tấu Quốc ca trong một buổi lễ, có thể kèm một số khúc ngợi ca, với một buổi biểu diễn âm nhạc cho rộng rãi khán giả ngồi xem).
Một buổi biểu diễn ca nhạc là hình thức mang nặng tính chất thế gian và, như đã nói, nó tương kỵ với tinh thần Phật giáo.
Vì vậy, việc sử dụng phương thức này trong Phật giáo, nó cũng bộc lộ một số vấn đề.
Biểu diễn một bản giao hưởng, chẳng hạn như bản giao hưởng “Khai giác” tại đại lễ Vesak 2008 không làm mất trang nghiêm sinh hoạt Phật giáo. Nhưng loại hình nhạc cổ điển và giao hưởng ngoài tầm với của Phật giáo Việt Nam. Tức là không thể phổ biến rộng rãi.
Như vậy, chỉ còn có thể tổ chức sinh hoạt biểu diễn ca khúc như chúng ta vẫn thường thấy.
Và để thu hút khán giả, thì phải theo phong cách hiện đại, tức là không khác lắm với các show trình diễn ca nhạc thông thường hiện đại.
Nếu làm theo cái cách nam ca sĩ mặc đồ vest, nữ ca sĩ mặc áo dài, đứng hát nghiêm trang trên sân khấu chỉ thuần một thứ ánh sáng tinh khiết, phía sau là một bức màn nhung thẫm (như cách trình diễn ca nhạc trên Đài Truyền hình Việt Nam (Sài Gòn), thập niên 1960, thì có lẽ, không có bao nhiêu khán giả, vì cách trình diễn quá trang nghiêm đứng đắn đó đã qua đi).
Khi chỉ còn một lựa chọn duy nhất, thì bài giải của chúng ta đi tới một trở ngại hóc búa, đó là vấn đề hình thể.
Biểu diễn ca nhạc hiện đại đã là sự trình diễn tổng hợp, không chỉ ca và nhạc, trong đó, yếu tố hình thể (lấy từ vũ đạo và sân khấu).
Xin đừng hiểu lầm là tôi đứng về phía ý kiến không tán thành phát triển hoạt động ca nhạc trong đạo Phật.
Mà ở đây, tôi chỉ muốn trình bày vấn đề một cách chi tiết, toàn diện, để làm sao chúng ta có thể lý giải tiến trình một cách tường tận, chính xác, nhằm đưa tới những giải pháp khả thi và đúng đắn.
Vì vậy, không thể tránh né một chi tiết nào, một khía cạnh nào.
Theo kiến giải của cá nhân tôi, thì khi đụng đến vấn đề ngôn ngữ hình thể, dùng cơ thể để sáng tạo nghệ thuật, đó là đã có việc lấn cấn đến vấn đề “dục”.
Trong lý luận sân khấu, yêu cầu đối với nghệ sĩ, cũng như một buổi biểu diễn là thanh và sắc.
Có sắc, không thanh, chỉ có thể làm diễn viên điện ảnh, trông cậy vào sự chỉ đạo của đạo diễn và diễn viên lồng tiếng.
Có thanh, không sắc, chỉ có thể hát studio, tức hát phòng thu, hát trên đài phát thanh, hát thu dĩa.
Còn biểu diễn ca nhạc, thì không những gồm thanh, sắc (có khi thanh trở thành không quan trọng vì có thể hát nhép), diễn xuất (ngôn ngữ hình thể), vũ đạo, hòa âm dàn nhạc, ánh sáng, trang trí sân khấu, hóa trang, y phục, đạo cụ, đội múa phụ họa…
Những thứ như vậy, phần lớn không phù hợp với Phật giáo.
Điều tất nhiên, nó làm mất trang nghiêm thiền môn, khi diễn xuất hình thể có mặt trong chùa, và trong số khán giả có các nhà sư.
Như vậy, chúng ta đã lần đến được điểm nút tương kỵ giữa biểu diễn ca nhạc và Phật giáo. Đó không phải chỉ là thanh (như trong bài viết của tác giả Bình Anson), mà còn là sắc, sự hấp dẫn của “sắc” trong quá trình thể hiện với các động tác, lấy cơ thể làm chất liệu sáng tạo nghệ thuật.
Chúng tôi mong quý bạn đọc có ý kiến ở chỗ này, vì liệu tôi có quá chủ quan với ngành học của mình hay không, điều là người ta thường gọi là méo mó nghề nghiệp?
6) Từ những điều trình bày ở trên, chúng ta có thể kết luận, biểu diễn ca nhạc là khâu “nhạy cảm” nhất trong quá trình sử dụng ca nhạc phục vụ sinh hoạt Phật giáo. Biểu diễn ca nhạc đã trở thành một trong những sinh hoạt Phật giáo Việt Nam hiện đại. Nhiều buổi biểu diễn có tính chuyên nghiệp cao, tức là tổng hòa thành công những yếu tố đã kể ở trên, thu hút nhiều người tham dự.
Vì vậy, không thể nói đến việc loại trừ phương thức này khỏi sinh hoạt Phật giáo.
Mà điều bàn luận ở đây là làm thế nào để các buổi biểu diễn ca nhạc giảm bớt mức tương kỵ với tinh thần Phật giáo.
Chúng ta không tìm lời giải ở việc tìm cách triệt tiêu yếu tố “sắc”, sử dụng ngôn ngữ hình thể, dùng chính cơ thể như một chất liệu sáng tạo nghệ thuật ở các buổi biểu diễn ca nhạc Phật giáo. Vì như thế là làm cho chương trình dở đi so với tiêu chuẩn hiện nay. Công chúng các buổi ca nhạc Phật giáo không phải công chúng của những buổi trình diễn opera, mà ở đó, chỉ có yếu tố âm thanh, toàn thân ca sĩ đứng yên như pho tượng với y phục tuyệt đối kín đáo và trang trọng, mà là công chúng như tuyệt đại đa số công chúng hiện nay.
Những giải pháp mà tôi đề xuất là:
– Nếu trong các buổi lễ Phật giáo tính chất trang nghiêm có phần biểu diễn ca nhạc, thì những tiết mục nào có thể chuyển hóa thành âm nhạc thờ phượng thì mới giữ trong chương trình lễ. Các tiết mục chỉ mang tính chất biểu diễn, nên chuyển ra khỏi chương trình lễ, xếp vào phần biểu diễn ca nhạc riêng.
– Chương trình biểu diễn ca nhạc Phật giáo, dù nội dung là những bài ca Phật giáo và dân tộc, chỉ nên được coi là phương tiện tập họp công chúng, không nên đưa thành yếu tố chính của sự kiện nào đó.
– Các nhà sư không nên tham gia “biểu diễn” chung với các ca sĩ chuyên nghiệp, vì các nghệ sĩ chuyên nghiệp dù hát các ca khúc Phật giáo, họ vẫn giữ trong quá trình thể hiện những yếu tố căn bản của biểu diễn ca nhạc hiện đại.
– Tốt hơn, các vị tăng ni không nên xem, càng không nên chủ trì (như khán giả chính của biểu diễn), mà khi đến phần biểu diễn ca nhạc chuyên nghiệp, thì nên coi như “bàn giao” sinh hoạt lại cho Phật tử.
– Đạo diễn chương trình cần được tuyển chọn, sao cho nội dung chương trình diễn xuất, trang phục, hóa trang, ánh sáng… phù hợp với tinh thần đạo Phật.
– Không hạn chế, cũng như không khuyến khích các buổi biểu diễn ca nhạc Phật giáo, nhưng cần ý thức rằng phương tiện đó không phải là sở trường của Phật giáo.
– Sử dụng phê bình âm nhạc như một công cụ định hướng đối với những bài hát không có nội dung Phật giáo trực tiếp là một kỹ thuật có thể sử dụng để Phật giáo hóa các bài hát biểu diễn.
Chẳng hạn, rất nhiều bài hát không có nội dung Phật giáo trực tiếp, nhưng nói lên sự vô thường của cuộc đời, của kiếp người, đều có thể cân nhắc để đưa vào một chương trình biểu diễn ca nhạc Phật giáo, nếu trước đó có một đoạn pháp thoại ngắn, phân tích, nhấn mạnh nội dung thể hiện sự vô thường trong bài hát, biến bài hát trở thành một tác phẩm minh họa cho giáo lý đạo Phật, định hướng sự cảm thụ của công chúng.
Việc làm này là trong tầm tay quý tăng ni.
Với những lời văn bình luận trước khi biểu diễn bài hát, tất nhiên khán giả sẽ cảm thụ bài hát khác với khi không có lời bình luận. Và với lời bình luận mang tính chất pháp thoại, rất nhiều bài hát “đời” có thể đưa vào biểu diễn trên sân khấu ca nhạc Phật giáo, nó có tác dụng minh họa những nội dung Phật giáo, đã được lời bình luận chỉ ra.
7) Ca nhạc cộng đồng, chủ yếu là cho thanh thiếu niên Phật giáo, là một lĩnh vực nên tập trung đầu tư.
Ca nhạc cộng đồng là những bài ca có thể ngắn, dễ hát, mang nội dung Phật giáo, có thể dễ dàng phổ biến trong thanh niên, tự hát, cùng hát…
Ca nhạc cộng đồng cũng có thể tổ chức thành buổi biểu diễn, nhưng đó là văn nghệ quần chúng. Tất nhiên, vì không có tính chuyên nghiệp nên văn nghệ quần chúng có chất lượng không cao, không đòi hỏi nhiều thanh, sắc, diễn xuất hình thể…, và thực tế không thể đạt mức cao ở những yếu tố như vậy.
Theo tôi, đây là trường hợp văn nghệ mà các vị tu hành có thể tham dự.
Việc tổ chức các cuộc thi, các đợt vận động sáng tác ca khúc Phật giáo cộng đồng là một hoạt động cần quan tâm, phục vụ cho việc phát triển sinh hoạt thanh thiếu niên Phật tử.
8) Hoạt động ca nhạc Phật giáo, ngoài những loại hình kể trên, còn có hoạt động thu phổ biến dĩa hình, dĩa tiếng, chương trình ca nhạc phát thanh truyền hình Phật giáo.
Đây là hoạt động có tác động mạnh mẽ đến khán giả rộng rãi không kém gì hoạt động tổ chức biểu diễn ca nhạc Phật giáo.
Có thể áp dụng những nguyên tắc căn bản như đã trình bày ở trên trong hoạt động này.
Phương thức phổ biến băng tiếng và đĩa âm thanh chương trình phát thanh ca nhạc Phật giáo không có yếu tố “sắc”, không có diễn xuất hình thể, vì vậy, thích hợp với Phật giáo, dù là ca sĩ chuyên nghiệp biểu diễn. Vì vậy, nên đầu tư phát triển lĩnh vực này.
Kết thúc bài viết, một lần nữa, chúng tôi bày tỏ sự mong mỏi có được ý kiến thảo luận của bạn đọc, vì như đã nói, nội dung bài viết có thể chứa đựng nhiều nhận định, đề xuất chủ quan, có thể chưa được sự nhất trí cao, mang nặng nhãn quan có tính chất lý luận liên hệ đến ngành học mà tác giả được đào tạo.
MT