Trang chủ PGVN Nhân vật Ngẫm về thân giáo ở Đại lão Tỷ khiêu Phổ Tuệ

Ngẫm về thân giáo ở Đại lão Tỷ khiêu Phổ Tuệ

1198

Thiền và Thơ

Trong lịch sử Thiền tôn, dường như hết thảy các Thiền sư đều có thơ Thiền, ngay cả khi họ chưa biết chữ. Bài nào cũng hay. Không hay sao gọi là thơ Thiền?  Không có thơ Thiền sao gọi là Thiền sư? Và làm gì có Thiền sư nào mà không là Thi sĩ?

Dĩ nhiên ở đâu đó, danh từ này được dùng ở dạng tha hoá của nó.

“Thơ là hình thức nghệ thuật dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh và có nhịp điệu để thể hiện nội dung một cách hàm súc”. Do vậy, nó gần gũi với bản chất của Pháp giới. Phải chăng, các Thiền sư khi đạt tới một công phu tu chứng nào đó thì có khả năng hoà cái Tâm của mình vào cái Tâm – Pháp Thân của Vũ trụ, và cũng là Thơ của Tự nhiên. Khi đó, họ khẽ bật móng tay, khẽ đằng hắng để hé lộ ra chân tính của Thiền, đó là Thơ Thiền. (Ở đây tôi chưa đề cập đến các công án –  ánh chớp của Thiền sư).

Do vậy, tác phẩm thứ nhất của một Thiền sư đó là Thiền thi. Đương nhiên với tư cách học giả, vị đó có thể để lại nhiều tác phẩm các loại khác nhau, nhưng đó lại là chuyện khác, xa lạ với Thiền.

Và tác phẩm lớn nhất, cái làm cho Thiền sư đích thực là Thiền sư đó chính là bản thân Thiền sư: Sự đồng nhất Thân – Tâm.

Những dòng trên đây được tôi coi là những dòng phi lộ để lại nói về Đại Lão Tỷ khiêu – một Thiền sư đương đại –  Cụ Phổ Tuệ – Tổ Ráng, chúng tôi thường gọi như thế, mà tôi đã “mấy phác họa” trong một bài viết trước đây.

Tháp cửu phẩm liên hoa chùa Viên Minh

Như ai đó đã nói: Lời khen của chúng ta không đủ làm các Ngài cao thêm và lời chê của chúng ta cũng không đủ làm các Ngài thấp đi. Vậy thôi!

Có thể ai đó cho rằng, bài viết này của tôi là võ đoán. Nhưng không sao, tôi yêu sự võ đoán của mình. Có lý thuyết nào ban đầu mà không ở dạng võ đoán đâu!

Thơ Tết và chậu Lan

Cụ Phổ Tuệ yêu thơ và hay thơ. Những bài thơ Cụ viết ra thường chỉ được lưu truyền trong chốn Thiền môn. Mùa xuân năm 2006, khi Cụ 90 tuổi, đâu đó thấy có bài thơ “Cỗ tết nhà Chùa” của Cụ, đã giới thiệu ở trước đây, nay xin nhắc lại:

Nhà Chùa tết nhất nghĩ mà vui

Lộc Phật ban cho đủ mọi mùi.

Giò thủ Lăng nghiêm, Viên giác bánh

Chè Balamật, Pháp hoa xôi

Kìa mâm Bảo tích, bày trăm vị

Nọ đũa Kim cương sắp bốn đôi

Chiếu giải Luật nghi nhà Trượng thất

Bạn cao Tăng đạo thỉnh lên ngồi.

Trên mâm cỗ nhà Chùa của Cụ đủ tên các món và đồ ăn thế gian: giò, bánh, chè, xôi, mâm, đũa, chiếu… nhưng hương vị thì thấm đẫm Phật Pháp: Chùa, Phật, Thủ Lăng nghiêm, Đại Viên giác, Đại Bát nhã Ba la mật, Diệu Pháp Liên hoa, Đại Bảo tích, Kim cương, Luật nghi, Tăng…

Vật báu của chư Phật, huệ mạng của chư Bồ tát được Cụ bày ra, không phải chỉ để kính để thờ, để chiêm ngắm, mà còn coi là món ăn, đồ dùng. Luật nghi được Cụ trải ra làm chiếu ngồi, có khác gì vị Tổ nào đó đã chẻ tượng Phật ra để đốt sưởi, tìm Xá lợi đâu! Rồi thức ăn được tiêu hoá: tinh ba ngấm vào người, nuôi dưỡng và làm thanh tịnh thân, tâm; cặn bã bị đào thải, làm thức ăn cho các loài khác. Tất cả đều qua đi, cùng lắm cũng chỉ còn lại “Dư Âm”. Đó há chẳng phải là tinh thần rốt ráo của sự học Phật ư ?

Kỳ diệu thay, mâm cỗ ấy luôn tinh khôi, Cụ luôn để đó đợi bạn cao Tăng! Và có lẽ, chỉ có các bậc Cao Tăng mới đủ bản lĩnh và thần thức để thụ hưởng cỗ Tết nhà Chùa theo tinh thần Phổ Tuệ.

Trong nhà Tổ Chùa Ráng có kê một cỗ sập cũ kĩ nhưng luôn sạch bóng. Trên đó trống vắng, đôi khi chỉ duy có một chậu Lan rất đẹp. Chắc được Cụ để tâm nên chậu Lan luôn tươi mới. Hoa thực chất cũng chỉ là bộ phận tạo giống truyền thừa các thế hệ của cây cỏ mà thôi. Nhưng Lan này có hoa mà không đậu quả, giống như “con lừa ba chân” trong Khoá Hư Lục mà Cụ đã chỉ dạy. Ở đó, sinh tử đoạn tuyệt!

HT. Thích Phổ Tuệ đang đọc sách tại nhà Tổ. Ảnh: Xuân Loan

Mỗi ngày là một ngày mới

Có ai đó đang đi đi về về chùa Ráng, thấy năm tháng trôi đi dường như chẳng mấy đổi thay. Vẫn cảnh ấy, vẫn người ấy. Dấu ấn của thời gian xoay vần quanh một Người – Thiền sư Phổ Tuệ. Cụ đã sang tuổi 92 mà vẫn giữ được tâm hồn như một trẻ thơ. Vì không cũ đi cho nên luôn luôn mới. Với Cụ, mỗi ngày là một ngày mới.

Ai chẳng biết công việc ở chốn Thiền môn thường xuyên lặp đi lặp lại, nhàm chán. Nhiều lúc tôi lẩn thẩn tự hỏi: không biết trong gần 90 năm qua, Cụ lễ Phật đã bao nhiêu lần? Thế mà mỗi ngày lên Chùa, đối với Cụ vẫn kính cẩn, mới mẻ; khuôn mặt, ánh mắt đầy xúc cảm của thuở ban đầu. Một mình lặng lẽ lau mắt kính để nhìn cho rõ, đâu đó nơi cao xanh. Tôi thấy trên khuôn mặt ấy, ánh mắt ấy, rõ mồn một hình ảnh Chú Sa di Phổ Tuệ trong sáng, hồn nhiên của gần 90 năm trước. Thời gian hơn một đời người bình thường đã trôi qua, cái Tâm ban đầu vẫn không đổi khác, đó chẳng phải là Thiền sao?

Thiền hành: cối đá và cầu ao

Trên lối ngách từ nhà bếp lên nhà Tổ ở chùa Ráng, không xây bậc tam cấp, cho dù thềm cao tới 1 mét, đặt vào đó là cái cối đá vỡ đôi được buộc lại sơ sài bằng một sợi lạt tre, chông chênh, rất nguy hiểm cho người đi lại. Ban đầu mấy lần tôi suýt ngã. Hú vía! May chống được tay. Nhưng Cụ sư già hơn 90 tuổi vẫn thung dung đi lại hằng đêm, bằng an, như không.

Tôi đã được nghe ở đâu đó nói về Thiền hành, sự thong dong, thảnh thơi, vững chãi trên những con đường uốn lượn, trong những cánh rừng râm mát hay trong những thiền đường thâm nghiêm. Đối với Cụ Phổ Tuệ, Thiền hành theo nghĩa đó thật hiếm gặp. Con đường mà Cụ thiền hành hàng ngày lắm gập ghềnh, đầy gai tre.

Trong tôi bỗng dội lên hình ảnh Thầy Phổ Tuệ cao gầy, trong suốt hơn nửa thế kỷ, chiêm mùa đôi vụ, lấm lem trên những luống cày, mùa hạ nóng chết đỉa, mùa đông lạnh buốt xương, chân tay nứt nẻ. Mồ hôi cay sè trên mắt, mặn chát trên môi. Và đêm về: tụng Kinh, niệm Phật, đọc sách, luyện chữ… Nhẫn nại, kiên cường để làm nên một Thiền sư mà chúng ta đang thầm nhắc hôm nay.

Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ. Ảnh: Chính Pháp Trần Trọng Hoàng

Trước Đại điện chùa Ráng có vạt ao sen, “bãi bể nương dâu”, nay có thêm một Bảo tháp thờ Phật ở giữa. Vạt ao được chia làm hai, nhỏ và xinh hơn, nhưng không còn cái thoáng đãng, hoang sơ. Trên ao có chiếc cầu tre nhỏ và xa, và chênh vênh. Đó là cầu hái sen cúng Phật? Lấy nước tưới rau? Tắm giặt? Có lẽ là tất cả và hơn thế nữa!

 Tôi thấy dội ở đâu đó về ảnh tưởng: Chạng vạng chiều mùa hạ năm nào đó, trên cầu ao đó, vài nhà sư, áo buộc vạt, chân lấm bùn, trầy trợt gánh nước làm vườn. Đêm về, chụm đầu bên ngọn đèn dầu, mê mải dịch Kinh, viết sách. Rồi kẻ đi, người ở, tử biệt, sinh ly. Nhưng tôi tin rằng, sự cộng thông tâm tưởng của chư vị chưa hề cách quãng.

Đồng dạng với Phật và Tổ

Có người ở đâu đó khi về chùa Ráng đã khởi tâm thương sót: nhà Chùa thanh bạch và vất vả quá; có chăng an ủi đôi phần là thấy Cụ mạnh khoẻ: hơn 90 tuổi mà vẫn sang sảng, luôn tay, đi lại nhanh nhẹn với đôi guốc mộc tự đẽo trên những lối đi lổn nhổn gạch đá, rễ cây chằng chịt mà không hề vướng vấp; nhiều lúc sợ Cụ ngã, ai đó nhắc, Cụ khẽ gắt lại: Sao mà ngã được, Tôi đang đi trong rừng hoa. Hơn 90 tuổi hoa mắt là chuyện thường, chẳng ai giận Cụ cả.

Hòa thượng Thích Phổ Tuệ đang giảng pháp cho Phật tử trẻ. Ảnh: Chính Pháp Trần Trọng Hoàng

Khi giảng Pháp, Cụ thường vận những tấm y cũ, vải thô, nhiều khi rách đôi chỗ. Hết mực giản dị mà vẫn uy nghi, trác việt. Không biết 2500 năm trước, Đức Thích Ca ăn mặc ra sao, nhưng đâu đó có bài vịnh rằng:

“Rồi từ đó trên bước đường vạn dặm

Một bóng người trong manh áo tả tơi

Mãi dấn thân vào hạnh nguyện độ đời

Người đi mãi trên con đường giải thoát”.

Rồi khi Cụ làm ruộng, làm vườn, chẻ củi, dọn vệ sinh… Cụ đâu có xa lạ với chư Tổ. Phải chăng Tu là làm theo, nói theo, nghĩ theo những điều mà Phật, Tổ đã nói, đã làm, đã nghĩ? Mục đích là từng bước đạt tới sự đồng dạng, ngày càng trùng với Phật và chư Tổ? Tôi chợt giật mình thấy rằng Tổ đâu có xa! Dân chúng và các Thầy đều đã gọi đấy thôi!

Thi thoảng có khách “sang”, ai đó nhắc Cụ thay y. Chiều lòng, Cụ đi thay, (Cụ cũng chẳng thiếu vài manh áo), nhưng lại ngâm nga ngầm mắng:

“Thế gian hoa mắt áo quần sang

Tăng sĩ cần chi phải điểm trang

Đẹp lắm thời càng đam mê lắm

Ăn nhờ tín thí chớ huênh hoang.”

Thực ra cả đời Cụ cho tới tận bây giờ, sống luôn khắc khổ, tự lực cánh sinh, tự cấp tự túc, với Cụ dường như “một ngày không làm là không ăn” theo gương một vị Tổ nào đó.

Thuở tráng niên và sau này, Cụ không có điều kiện theo học các trường lớp lớn và chính quy. Không được học nhiều  ngoại điển, Cụ chỉ học Phật, chư Tổ ở các Tổ đình và tự học, miệt mài, cần mẫn, chuyên sâu, “học không biết chán”, triệt để theo “ tam đoạn luận” Văn – Tư – Tu của nhà Phật. Thời gian gần một thế kỷ trôi đi, đã hun đúc nên một Tỷ khiêu không ngại mang danh Phổ Tuệ của ngày hôm nay.

Cụ chỉ biên soạn, dịch thuật, trước tác: Bách Dụ Kinh, Phật Tổ Tam Kinh, Bát Nhã Dư Âm, Đề cương kinh Pháp hoa, Phật học là Tuệ học, tham gia biên tập Từ điển Phật học, v.v. Và giảng dạy: Luật nghi, Lăng nghiêm, Duy thức học, Nhị khoá hiệp giải… Còn các lĩnh vực ngoại điển khác thì Cụ bảo: Chịu thôi!

Cho dù đã hơn sáu mươi năm “dạy không biết mỏi”, thế mà đến ngày Nhà giáo Việt Nam, chư đệ tử đến mừng Thầy thì Cụ không ngại ngần gạt đi mà bảo: Tôi không phải là nhà Giáo, tôi trước sau chỉ là nhà Tu. Chẳng biết là sao!

Hòa thượng Thích Phổ Tuệ với Thanh niên Phật tử. Ảnh: Thích Thụ Trì

Với chiếc máy ảnh hiện đại trên tay, quanh quẩn ở chùa Ráng, có lẽ Thầy Lê Mạnh Thát đã tần ngần rằng, một bậc chân tu và phổ tuệ như vậy mà không có điều kiện để trở nên quảng bác ngoại điển. Còn thầy Tịnh Hạnh từ Đài Bắc tới thì có lẽ không tin nổi là chùa Ráng chẳng có thư viện nào cả, sách vở chẳng có gì ngoài mấy pho Kinh Phật.

Chữ danh

Tuy đứng ra gánh vác các trách nhiệm như Hạ chủ các trường Hạ của Hà Tây, Trưởng ban Trị sự tỉnh hội Phật giáo tỉnh Hà Tây, Hiệu trưởng trường Trung cấp Phật học Hà Tây, Đại lão giáo thụ của Học viện Phật Giáo Việt Nam, Viện trưởng Phân viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội, Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự kiêm Phó ban Tăng sự, Phó Pháp chủ, Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh của GHPGVN. Vậy nhưng Cụ nhàn thế sự lắm! Rất ít khi Cụ ra nơi đô hội, thi thoảng thôi. Có ra thì lại vội trở về. Phải chăng Cụ sống như chư Tổ thường dạy:

Nhập trần tri túc tâm thường lạc

Xuất thế vô cầu phẩm giá cao”.

Chùa Ráng là nơi đặc biệt vắng vẻ, ngay cả ngày tuần. Dân lân cận ít đến vì đây là chùa hai dân – chung của hai làng. Khách nơi xa thì hãn hữu lắm. Có hề chi!

Hòa thượng Thích Phổ Tuệ trả lời phỏng vấn trang tin điện tử Phật tử Việt Nam. Ảnh: Huệ Minh Lê Minh Nghĩa

Nhà chùa có một bầy chó rất đông. Cụ thương lắm. Đích thân Cụ thường trộn thức ăn cho chúng và cởi dây thả chúng ra trước các bữa ăn, ngày nào cũng vậy, đã hàng nhiều chục năm. Cụ gọi chúng là các cháu, đôi khi mắng mỏ. Cụ nói chuyện với chúng như với những người bạn khác loài. Có lúc 3 – 4 giờ sáng, chúng ngồi quanh Cụ trước nhà Tổ nghe Cụ giảng Pháp. Cụ coi chúng như người. Chúng nghe lời Cụ như người nghe, biết lạy, dường như hiểu cả, chỉ không biết nói. Tôi bàng hoàng chợt nghĩ đến đâu đó sâu xa. Có lúc thấy chúng rơm rớm nước ở nơi khoé mắt? Tôi thấy cũng lạ thật, mà chưa dám hỏi Cụ. Có lẽ nên tự hiểu thì hơn.

Bên ngoài trời đã tang tảng sáng, chuông đồng hồ thong thả điểm 4 tiếng, sương giăng đầy một mầu nước gạo. Sau thời khai tĩnh, bóng vị sư già lại thấp thoáng trên những lối đi quen thuộc. Tiếng guốc lọc cọc khi gần khi xa. Dư âm của nó lan toả vào thinh không. Phương đông rạng, hắt ánh hồng nhạt lên bầu trời sớm mùa Xuân sinh.

Tôi giật mình nhận ra, mình đang sống trong một ngày mới.

Chùa Ráng, xuân Đinh Hợi, 2007

Phật tử Việt Nam xin trân trọng giới thiệu một số hình ảnh về chùa Viên Minh và Đại lão tỷ khiêu Thích Phổ Tuệ

Nhà tổ chùa Viên Minh

Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh (trái) và Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (phải), hai bậc tùng lâm thạch trụ của Phật giáo Việt Nam hiện nay

Kinh khắc gỗ tại chùa Viên Minh

Hòa thượng với Thanh niên Phật tử