1. Dẫn vào giới thiệu
Mục tiêu của việc giới thiệu văn bản này đến bạn đọc Phật giáo là mong muốn bạn đọc Phật giáo ý thức về cục diện tôn giáo đang chuyển biến mạnh, ý thức về một trong những vấn đề lớn mà Phật giáo phải đối mặt, là cải đạo tín đồ Phật giáo sang tôn giáo khác, nay sẽ bằng những phương tiện mới, những phương tiện mà từ năm 1954 ở miền Bắc, từ năm 1975 trên phạm vi cả nước, đã không thể sử dụng. Một trong những phương tiện đó là lực lượng “Công giáo tiến hành”, mà nếu dịch đúng là “Công giáo hành động”, một lực lượng mũi nhọn, xung kích của đạo Ca tô La Mã.
Văn bản được giới thiệu dưới đây cho thấy vai trò, trọng lượng, sức mạnh, quy mô của lực lượng “Công giáo hành động”. Nó cũng sẽ cho thấy những hạn chế của lực lượng này được những vị lãnh đạo của họ chỉ ra về mặt lý luận, phân tích, điều chỉnh, nâng cấp, bày bố trận đồ mới, tổ chức những mũi xung kích hành động mới.
Nó cũng sẽ cho thấy đạo Ca tô La Mã luôn quan tâm đến cục diện tôn giáo nói chung và chỉ đạo những hoạt động của họ trên cơ sở đầu tư, chủ động nghiên cứu đi vào chiều sâu cục diện tôn giáo, xử lý các số liệu thống kê. Đây là điều mà Phật giáo Việt Nam không hề quan tâm, không cần biết đến.
Có một số người cho rằng, sau năm 1975, Phật giáo Việt Nam suy thoái vì bị hạn chế phát triển, do hoàn cảnh chung đối với tất cả các tôn giáo lúc đó. Chắc chắn những thống kê để làm cơ sở kết luận về điều này những nhà lãnh đạo Phật giáo Việt Nam không hề có.
Nhưng điều chắc chắn, là từ sau năm 1954 ở miền Bắc và sau năm 1975 trên phạm vi cả nước, ba phương tiện cải đạo tín đồ Phật giáo sang tôn giáo khác là hoạt động giáo dục, hoạt động y tế bệnh viện và hoạt động của các lực lượng “Công giáo hành động” đã phải tạm ngưng.
Như vậy, có nhờ đó mà Phật giáo Việt Nam hạn chế được số tín đồ bị cải đạo?
Nhưng qua bài nói được giới thiệu ở đây, người đọc sẽ thấy lực lượng “Công giáo hành động” đang trên đà khôi phục mạnh mẽ, với việc nghiên cứu lý luận sâu sắc, những chỉ đạo sát sao với thực tiễn, những phương án được vạch ra khá cụ thể (còn hành động giáo dục ở tôn giáo này để phục vụ cải đạo thì cũng đang trên đà hồi phục, Giáo hội Ca tô La Mã cũng đã nộp đơn xin thành lập bệnh viện (như dạng Bệnh viện Saint Paul).
Sự hồi phục của ba phương tiện cải đạo tại Việt Nam, Công giáo hóa Việt Nam, trong đó rõ nét nhất là lực lượng “Công giáo hành động” báo trước một giai đoạn khó khăn, thử thách lớn đối với Phật giáo Việt Nam.
Không phải thời kỳ sau năm 1975, mà chính thời kỳ sắp tới đây sẽ rất khắc nghiệt, ngặt nghèo cho Phật giáo Việt Nam. Những quan chức có thể khó khăn đối với Phật giáo Việt Nam vào thời kỳ sau 1975, thì đến nay, khi tuổi cao, phần lớn trong số họ đã trở nên gần gũi với Phật giáo, thành những người bạn của Phật giáo, thậm chí còn là tín đồ Phật giáo và gồm cả con cái họ.
Còn những người theo đạo Phật cải đạo sang tôn giáo khác, thì hầu như không bao giờ như thế cả, và có thể chính họ và cả con cái họ quay lại cải đạo Phật giáo một cách quyết liệt hơn, dữ dội hơn, căng thẳng hơn.
Trong bài được giới thiệu, người ta không dùng cụm từ Công giáo hóa như thời Ngô Đình Diệm, mà thay vào đó là cụm từ “phúc âm hóa”. Phúc âm hóa có gì khác Công giáo hóa?
“Bồ tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Nếu thực sự có trí tuệ, thì có thể nhận ra cái “nhân” đối với một giai đoạn mới cho Phật giáo Việt Nam ở văn bản được giới thiệu đây.
Văn bản được giới thiệu là một bộ phận của sự chuyển đổi về lý luận của các nhà lãnh đạo Ca tô La Mã, nhằm mục tiêu chuyển đạo Ca tô La Mã ở Việt Nam từ một tôn giáo “giữ đạo”sang tôn giáo “truyền đạo”, nói đúng hơn là phục hồi vị trí đạo Ca tô L Mã đã có. Tôi sẽ cố gắng liên tục giới thiệu đến bạn đọc Phật giáo những tài liệu như vậy, để làm sao cho người theo đạo Phật nhận thức về một thời kỳ mới sắp xảy đến cho Phật giáo Việt Nam.
Văn bản được giới thiệu ở đây dường như là một tài liệu bán công khai, bán “mật” của đạo Ca tô La Mã, nghĩa là chỉ phổ biến nội bộ, phổ biến hạn chế, phổ biến diện hẹp. Cắc cớ, một cộng tác viên của báo Người Công giáo Việt Nam “sưu tầm” và báo này đăng tải không có lời ghi chú được sự đồng ý của tác giả, dù tác giả không gửi cho báo này.
Cần chú ý đến danh mục rất dài các lực lượng Công giáo tiến hành, số lượng nội dung ghi nhận tiến trình không hoạt động sau 1975 và đang hồi phục.
2. Xuất xứ tư liệu:
2.1. Tên tư liệu: “Các hội đoàn Công giáo Tiến hành tham gia vào sứ mạng Phúc âm hóa tại Việt Nam”.
2.2. Tác giả: ĐGM Anphong Nguyễn Hữu Long, GM phụ tá GP. Hưng Hóa, Chủ tịch Ủy ban Loan báo Tin Mừng – HĐGM Việt Nam.
2.3. Thông tin xuất bản: Báo Người Công giáo Việt Nam số 35-2017, từ trang 12.
3. Trích dẫn giới thiệu:
“CÁC HỘI ĐOÀN CÔNG GIÁO TIẾN HÀNH THAM GIA VÀO SỨ MẠNG PHÚC ÂM HÓA TẠI VIỆT NAM
ĐGM Anphong NGUYỄN HỮU LONG
GM phụ tá GP. Hưng Hóa, Chủ tịch Ủy ban Loan báo Tin Mừng – HĐGM Việt Nam
LTS: Như tin đã đưa, Hội nghị toàn quốc về Loan báo Tin Mừng được tổ chức tại Tòa Giám mục Xuân Lộc từ 13g30 ngày 7/8-16g30 ngày 9/8/2017, với chủ đề: “Các Hội đoàn Công giáo Tiến hành và Sứ vụ loan báo Tin Mừng tại Việt Nam ngày nay”.
Có trên 250 tham dự viên (trong đó có khoảng 50 linh mục và 30 tu sỹ) đến từ 24 giáo phận, riêng TGP.TPHCM và Xuân Lộc có đại diện của tất cả các Hội đoàn và Hội giới Tông đồ giáo dân.
Tại hội nghị, Đức cha Anphong Nguyễn Hữu Long, Chủ tịch Ủy ban Loan báo Tin Mừng – Hội đồng Giám mục Việt Nam đã phát biểu khai mạc và chủ trì hội nghị, đồng thời ngài cũng là một diễn giả đã trình bày với hội nghị một vài vấn đề liên quan đến đề tài của hội thảo. Là cộng tác viên của báo NCGVN, ông Phê rô Nguyễn Mai đã sưu tầm và gửi cho báo bài viết này. Báo NCGVN xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Tất cả chúng ta đều rõ Phúc Âm hóa là sứ mạng được Chúa Giêsu trao phó cho toàn thể Giáo hội (GH), cho mọi Kitô hữu. Sứ mạng này mãi mãi là quan trọng, cấp bách và không được phép xao lãng, và bản chất của Giáo hội là ở đây. Ngày nào GH không ưu tư và không ưu tiên cho việc Loan Báo Tin Mừng (LBTM) thì GH không còn là GH của Chúa Giêsu nữa!
Trong thời gian qua, Ủy ban Loan báo Tin Mừng trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (UBLBTM/ HĐGMVN) đã lần lượt tổ chức các cuộc hội thảo với các linh mục trưởng ban LBTM các giáo phận (2014), Đại hội LBTM toàn quốc lần thứ III (2015), hội thảo với các hội dòng đời sống thánh hiến (2016), và năm nay hội thảo với các hội đoàn Công giáo Tiến hành (CGTH).
Mục đích cuộc hội thảo này nhằm trao đổi, học hỏi lẫn nhau, tìm cách đẩy mạnh công cuộc LBTM với các hội đoàn CGTH. Chúng tôi không có tham vọng tổ chức qui mô, mà chỉ hạn hẹp với một số hội đoàn trong hai giáo phận mạnh về hội đoàn CGTH là Saigon và Xuân Lộc. Thiết nghĩ với số tham dự viên hơn 200 vị như thế này cũng đủ để có thể vạch ra hướng hoạt động trong tương lai. Đối với những hội đoàn không được mời dự cuộc hội thảo này, chúng tôi xin thông cảm cho chúng tôi và xin cho biết những hoạt động LBTM và góp ý để bổ túc cho UBLBTM những việc có thể và nên làm.
Trong bài thuyết trình này, tôi xin trình bày với hội nghị một vài vấn đề liên quan đến đề tài của cuộc hội thảo.
1- Thuật ngữ
Nhân tiện, xin đề cập đến các thuật ngữ dùng để chỉ sứ mạng này. Khi bàn về sứ mạng cao cả và cấp bách này, người ta thường nghĩ đến việc loan báo Tin Mừng cho những miền xa xăm (ngoại vi) chưa hề biết Chúa, đến việc rửa tội cho người ngoại để họ gia nhập vào Hội Thánh. Vì thế mà trước đây có những thuật ngữ như “Truyền giáo”, “Truyền bá Đức tin”, “Loan báo Tin Mừng”. Những thuật ngữ này không lột tả đúng hoặc hết ý nghĩa, lại có thể làm nhiều người dị ứng. Với Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, ta biết đến hai thuật ngữ khác là “Tái Phúc Âm hóa” (Re-Evangelization) và Tân Phúc Âm hóa (New Evangelization). Gần đây cha Antôn Nguyễn Mạnh Đồng, Antôn Nguyễn Ngọc Sơn đã có những bài viết phân tích ý nghĩa của các thuật ngữ chỉ về sứ mạng này, và đề nghị với Ủy ban nên sử dụng thuật ngữ “Phúc Âm hóa” thay cho các thuật ngữ “truyền giáo”, “loan báo Tin Mừng”. Phúc Âm hóa là làm cho Phúc Âm của Chúa Giêsu thấm nhập suy nghĩ, chi phối hành động và cuộc sống của toàn thể Giáo hội và của mỗi Kitô hữu; Phúc Âm đó cũng ảnh hưởng tốt đẹp đến xã hội và thế giới. Từ Phúc Âm hóa gợi lên ý tưởng muối ướp mặn đời, men làm dậy thúng bột, ánh sáng chiếu tỏa ra chung quanh…
2. Phúc Âm hóa là quyền và trách nhiệm của mọi Kitô hữu
Có nhiều tài liệu của Huấn quyền về vấn đề này, ở đây tôi chỉ xin trích hai khoản của Bộ Giáo luật 1983 nói về quyền và trách nhiệm LBTM của mọi tín hữu.
Đ. 211: “Tất cả các tín hữu có nghĩa vụ và quyền lợi phải làm sao cho sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa càng ngày càng được truyền tới hết mọi người, thuộc mọi thời và mọi nơi”.
Đ. 225: §1. Xét vì các giáo dân, cũng như mọi tín hữu khác, được Thiên Chúa ủy thác làm việc tông đồ do phép Rửa tội và phép Thêm sức, nên họ có nghĩa vụ tổng quát và có quyền lợi xét như từng cá nhân hoặc kết hợp thành hiệp hội, phải làm sao để sứ điệp cứu rỗi của Thiên Chúa được mọi người khắp thế giới biết đến và đón nhận. Nghĩa vụ này lại càng thôi thúc hơn trong những hoàn cảnh mà chỉ có thể nhờ các giáo dân, người ta mới có thể nghe Phúc Âm và biết Ðức Kitô.
§2. Tùy theo điều kiện riêng của từng người, các giáo dân cũng có bổn phận riêng phải thấm nhập và kiện toàn trật tự trần thế với tinh thần Phúc Âm; và như vậy họ làm chứng cho Ðức Kitô đặc biệt khi điều hành các sự việc thế trần cũng như lúc thi hành các chức vụ trên đời”. Chúng ta sẽ trở lại các khoản giáo luật này trong phần dưới đây.
Phúc Âm hóa là bổn phận chung của mọi tín hữu, dựa trên việc họ lãnh nhận bí tích Rửa tội và Thêm sức. Bổn phận này không chỉ dành riêng cho những nhà thừa sai, hay linh mục, tu sĩ, mặc dù đây là nhóm người có tầm quan trọng đặc biệt trong công cuộc Phúc Âm hóa (AG, 23-27). Không một Kitô hữu nào được miễn trừ sứ mạng này, mà mỗi người phải tham gia tùy theo bậc sống, hoàn cảnh, khả năng, điều kiện. Thánh Phaolô Tông đồ dân ngoại đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (I Cr 9,16). Chúng ta đừng dừng lại ở khía cạnh nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm đối với sứ mạng này, nhưng suy nghĩ tích cực về vinh dự, tự hào và niềm vui được Chúa giao phó sứ mạng này, cộng tác trong vườn nho hay cánh đồng của Ngài.
Sứ mạng Phúc Âm hóa nhằm ba đối tượng:
1. Những người chưa biết Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài = người ngoại đạo (Missio ad gentes);
2. Những người đang giữ đạo tốt = tín hữuđạo đức (Missio inter gentes). Họ cần được Phúc Âm hóa qua việc chăm sóc mục vụ các mặt, hầu đức tin của họ sâu xa và sống động hơn.
3. Những người hoặc mất đức tin, hoặc dửng dưng với đức tin, không còn gắn bó với Giáo hội = người nguội lạnh, lơ là. Những người này cần được Tân Phúc Âm hóa hay Tái Phúc Âm hóa (cf. RM, 33; EG, 14).
4. Phúc Âm hóa không chỉ dành cho người ngoại, nhưng cho cả các Kitô hữu đang giữ đạo và Kitô hữu dửng dưng với đạo; không chỉ giới hạn trong việc rao giảng Tin Mừng đầu tiên (kérygma), nhưng bao gồm cả giảng thuyết, giáo lý và thần học; không chỉ nhằm rửa tội để gia nhập đạo, nhưng còn giúp cho mọi người gặp gỡ Chúa; không chỉ là đem người ngoại đạo vào Giáo hội, nhưng còn là đem người trong Giáo hội ra với thế giới; không chỉ là quảng bá mà còn là thăng tiến, là làm cho các giá trị Tin Mừng thấm nhập vào đời sống Kitô hữu, các hoạt động của Giáo hội và xã hội. Trong ý hướng ấy, người ta nói đến Phúc Âm hóa phụng vụ (evangelizing liturgy), giảng lễ (evangelizing homily), giáo lý (evangeli-zing catechism), nhân sự và cơ cấu tổ chức của cộng đoàn đức tin (evangelizing community) vv…
3. Các hội đoàn và phong trào CGTH tại Việt Nam hiện nay
Công giáo tiến hành được hiểu là việc tông đồ giáo dân dưới sự lãnh đạo của hàng giáo phẩm, gồm các hội đoàn và các tổ chức (nhóm hay giới) hoạt động để thăng tiến xã hội và làm vinh danh Chúa. Trước năm 1975, các hội đoàn CGTH được tự do sinh hoạt tại miền Nam Việt Nam, trong khi tại miền Bắc không thể sinh hoạt gì. Sau năm 1975, các hội đoàn tại miền Nam cũng rơi vào tình trạng bế tắc như miền Bắc. Gần đây, các hội đoàn CGTH dần dần hồi sinh và hoạt động trở lại ở cả hai miền.
Các hội đoàn CGTH chia làm hai loại:
1/ chuyên biệt, dành cho một giới tính, hạn tuổi, ngành nghề, môi trường hoạt động nào đó, như Sinh viên Công giáo, Thanh Sinh Công, Thanh Lao Công, Thanh niên Thánh nghiệp, Hiệp hội Giáo chức Công giáo, Pax Romana…;
2/ không chuyên biệt, chung cho mọi thành phần giáo dân, như Liên Minh Thánh Tâm, Bác Ái Vinh Sơn, Cursillos, Legio Mariae, Gia Đình Phạt Tạ, Huynh đoàn Đa Minh, Huynh đoàn Phan Sinh Tại Thế…
Theo Niên giám 2016, tại Việt Nam hiện có 24 hội đoàn CGTH hoạt động:
1. Hội đồng Mục vụ giáo xứ
2. Thiếu Nhi Thánh Thể
3. Hùng Tâm Dũng Chí
4. Thanh Sinh Công
5. Hướng Đạo Công giáo
6. Giới Trẻ Con Đức Mẹ
7. Hiệp Hội Thánh Mẫu (Hiệp Sống)
8. Legio Mariae (Đạo Binh Đức Mẹ)
9. Các Bà Mẹ Công giáo
10. Gia đình Phạt tạ Thánh Tâm Chúa Giêsu
11. Huynh Đoàn Đa Minh (Dòng Ba Đa Minh)
12. Phan Sinh Tại Thế (Dòng Ba Phan Sinh)
13. Dòng Ba Cát Minh
14. Hiệp hội Giáo Dân Bác Ái
15. Caritas Việt Nam
16. Khôi Bình Việt Nam
17. Gia Đình Cùng Theo Chúa
18. Gia Đình Chúa
19. Hiệp hội Bác ái Quốc tế tại Việt Nam (AIC)
20. Hiệp hội Mến Thánh giá Tại Thế
21. Ca đoàn Công giáo
22. Phong trào Cursillo
23. Cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót
24. Giáo lý viên
Ngoài hội đoàn, phong trào CGTH còn có các tổ chức theo giới, nhóm, bậc sống, sở thích hoặc nghề nghiệp:
1. Chương trình Thăng tiến Hôn nhân
2. Gia đình Phúc Âm
3. Lòng Chúa Thương Xót
4. Gia đình Tận Hiến
5. Hội Mân Côi
6. Gia đình Emmanuel
7. Giới Trẻ
8. Giới Gia Trưởng
9. Giới Hiền Mẫu
10. Giới Cao Niên
11. Giới Doanh nhân Công giáo
12. Giới Y tế Công giáo
13. Giới Giáo chức
14. Giới Văn nghệ sĩ Công giáo
15. Nhóm Tác viên Tin Mừng (Xuân Lộc)
Danh sách trên đây còn thiếu sót, hoặc vì có hội đoàn mới được thành lập, và chỉ mới hoạt động trong phạm vi một vài giáo phận. Xin hội nghị bổ túc cho chúng tôi.
Tất cả các hội đoàn CGTH, dù chuyên biệt hay không, đều phải qui về mục đích Phúc Âm hóa, góp phần vào việc đem Tin Mừng Đức Kitô đến với mọi người, phát triển đời sống vật chất và tinh thần của người dân trong xã hội.
4. Nhận định về các hội đoàn CGTH tại Việt Nam
a/ Tích cực:
– Các hội đoàn CGTH tại Việt Nam được mọi người đón nhận, đáp ứng nhu cầu đạo đức của giáo dân Việt Nam, được tổ chức có hệ thống từ cấp giáo họ, giáo xứ đến giáo phận. Niên Giám 2016 cho biết số hội viên các hội đoàn CGTH trong cả nước lên đến trên 500.000 người. Nhiều người tham gia hai ba hội đoàn một lúc.
– Sinh hoạt của các hội đoàn đều đặn, từ việc hội họp đến việc đạo đức, công bằng xã hội, bác ái từ thiện, giáo dục, văn hóa… Có những hội đoàn sinh hoạt chặt chẽ với mức độ hàng tuần,
– Các hội đoàn CGTH có vai trò đáng kể là bảo tồn và chấn hưng tinh thần đạo đức. Niên Giám năm 2016 ghi nhận như sau: “… trong khi mức sống vật chất tăng cao, thì đạo đức tinh thần của một bộ phận người dân Việt Nam đang có nguy cơ bị sút giảm do sự cuốn hút của cuộc sống dễ dãi, hưởng thụ qua các phim ảnh xấu, sách báo đồi trụy, do tiến trình toàn cầu hóa về kinh tế và về cả văn hóa… Tình trạng sa sút này biểu lộ qua các tệ nạn xã hội như nghiện ngập, trộm cắp, mãi dâm, tội phạm hình sự, các án ly hôn, số người phá thai mỗi năm một tăng cao… Sự góp mặt của các phong trào CGTH thuần tuý đạo đức quả thật là một nhu cầu cần thiết để giúp cho xã hội Việt Nam ổn định và phát huy những nội lực quý giá của từng con người”.
– Một số hội đoàn tích cực với hoạt động Phúc Âm hóa, đem được nhiều người đến với Chúa. Nhờ nhiệt huyết tông đồ, các hội đoàn này gặp gỡ, đối thoại và dẫn dắt nhiều người đến với Chúa và Giáo hội, kể cả những người nguội lạnh, dửng dưng với đức tin nay trở lại sống đạo.
b/ Tiêu cực:
– Xem ra các hội viên CGTH tại Việt Nam dừng lại ở những việc đạo đức như kinh nguyện, dự lễ…, nhằm thánh hóa bản thân, giữ đạo sốt sắng, để sau khi chết được hưởng tôn nhan Chúa, mà quên rằng phải tham gia vào sứ mạng Phúc Âm hóa.
– Các hội đoàn CGTH còn nặng hình thức bên ngoài như đoàn ngũ hóa cho đông đảo, đồng phục lộng lẫy (màu cờ sắc áo), rước xách long trọng, tiệc tùng linh đình, hoành tráng… Có khi cạnh tranh ảnh hưởng, công kích, bình phẩm làm mất đức bác ái trong giáo xứ.
– Việc huấn luyện, đào tạo các hội viên CGTH về ý thức sứ mạng Phúc Âm hóa còn sơ sài, nếu không muốn nói là không có. Có người gia nhập hội mà chẳng hiểu rõ linh đạo, đường hướng hoạt động của hội…, cho nên kết quả của việc Phúc Âm hóa rất ít, không đáng kể! Niên Giám 2016 cho biết như sau: “Với số lượng đoàn viên lên đến hơn 500.000 người, đáng lý các tổ chức này phải là những nguyên tố tích cực trong công cuộc Phúc Âm hóa ở Việt Nam. Tuy nhiên trong cả trăm năm qua, tỷ lệ người Công giáo Việt Nam không phát triển được 1% dân số, điều này chứng tỏ các đoàn viên CGTH chưa tích cực đóng góp cho công cuộc truyền giáo. Phần trách nhiệm này thuộc về những vị lãnh đạo của các tổ chức và hội đoàn, nhưng trên hết vẫn là của Hội đồng Giám mục và các Ủy ban trực thuộc, trước khi nói đến trách nhiệm của từng tín hữu giáo dân hoặc những khó khăn do hoàn cảnh đất nước gây nên”. Trong cuộc hội thảo này, chúng ta sẽ được nghe Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo thuyết trình về việc đào tạo tinh thần PÂH cho các hội đoàn CGTH tại các Giáo hội ở Á châu. Chúng ta cảm phục các GH Hàn Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Nhật Bản… đã nỗ lực nhiều trong việc huấn luyện tông đồ cho giáo dân. GH tại Việt Nam phải chuyển mình trong việc huấn luyện giáo dân mới mong có kết quả trong sứ vụ Phúc Âm hóa (bảo thợ đi gặt lúa mà lại không cho họ cái liềm hoặc cho họ cái liềm cùn thì làm sao gặt được !).
– Từ chỗ ý thức không đủ, chẳng trách các hội đoàn CGTH dễ lấy những việc phụ làm chính yếu. Điểm lại những hoạt động của các hội đoàn CGTH giáo phận, giáo hạt…, ta thấy ít có kế hoạch, đường hướng rõ ràng hướng đến việc PÂH. Một nhận định: “Bước sang giai đoạn Tân Phúc Âm hoá kể từ năm 2015 này, chúng ta hy vọng các người có trách nhiệm của CGTH biết liên kết và cộng tác với nhau cách chặt chẽ hơn, biết đưa vào trong chương trình huấn luyện đoàn viên các bài học sống động thực tế để thăng tiến con người và cộng đồng hơn là các sinh hoạt mang tính vui chơi, trình diễn hoặc thuần túy chỉ là những bài kinh ở nhà thờ, biết tổ chức những hoạt động cụ thể để đem Phúc Âm đến cho những người nghèo khổ, khuyết tật, mồ côi, bệnh hoạn hay bị gạt ra ngoài lề xã hội như ĐGH Phanxicô mời gọi trong tông huấn “Niềm vui của Tin Mừng”.
– Trong khi thế giới và xã hội ngày nay chú trọng đến việc liên kết, hoạt động tập thể (liên doanh, tập đoàn) thì tại Việt Nam, các hội đoàn CGTH vẫn hoạt động riêng lẻ, cá thể, mạnh ai nấy làm, không kết hợp với nhau. Mỗi hội đoàn CGTH có cơ cấu tổ chức riêng, hoạt động riêng, không ngồi bàn bạc, trao đổi, khó hoặc không có những hoạt động chung. Chúng ta xem một nhận xét: “Mỗi tổ chức và hội đoàn Công giáo thực thụ không bao giờ mang hình thức tranh chấp với các đoàn thể khác trong lòng Giáo hội hoặc với các tổ chức xã hội khác. Trái lại, các tham dự viên hay hội viên, đoàn viên, với tư cách là Kitô hữu, nhờ ân sủng của Chúa và sự cố gắng của bản thân, sẽ sống hết mình để trở thành men, thành muối, góp phần vào sự phát triển của xã hội và thế giới”.
– Các hội đoàn CGTH hoạt động mạnh hay yếu, kết quả nhiều hay ít, phần lớn tùy thuộc vào các vị lãnh đạo trong GH, cụ thể là giám mục hay linh mục. Nếu linh mục quản xứ nhiệt tình chăm sóc, khích lệ, nâng đỡ, đồng hành với các hội đoàn, thì họ sẽ đem về nhiều kết quả tốt; ngược lại nếu linh mục quản xứ hờ hững, bỏ mặc, thậm chí ác cảm, không tạo điều kiện cho họ hoạt động thì sẽ không có nhiều kết quả tốt trong sứ vụ tông đồ.
5. Một số đề nghị hướng về tương lai cho các hội đoàn CGTH trong tương quan với sứ mạng Phúc Âm hóa tại Việt Nam
– Công đồng Vatican II đã mở ra một chân trời mới cho sứ mạng PÂH, đó là đề cao vai trò giáo dân tham gia vào sứ mạng này. Trong những thế kỷ qua, GH đã để mất nguồn nhân lực rất lớn là giáo dân khi coi nhẹ vai trò của họ trong sứ mạng PÂH. Nay, GH tại Việt Nam đã ý thức về việc cộng tác của giáo dân, trong đó có các hội đoàn CGTH, về hình ảnh một Giáo hội tham gia. Khoản giáo luật 225 §1 trích dẫn ở đầu bài này nhìn nhận rằng có “những hoàn cảnh mà chỉ có thể nhờ các giáo dân, người ta mới có thể nghe Phúc Âm và biết Ðức Kitô”. Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng nói đến thuật ngữ kép “Môn đệ – Phúc Âm hóa” (disciple-missionnaire). Giáo hội, qua hàng giáo phẩm và giáo sĩ, cần khuyến khích giáo dân tham gia tích cực vào sứ mạng này, đồng thời tạo điều kiện để họ hoạt động.
– Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng cho biết để sứ mạng Phúc Âm hóa có kết quả, cần phải có những phẩm chất quan trọng sau đây:
a/ Say mê Chúa Giêsu và say mê con người. Đó cũng là chủ đề sứ điệp ngày Phúc Âm hóa thế giới năm 2015. Lòng say mê này đòi hỏi bản thân người Phúc Âm hóa kết mối thâm tình với Chúa Giêsu. Khi say mê Chúa rồi, họ sẽ cảm thấy bị thôi thúc giới thiệu Chúa cho người khác. Bao lâu không có lòng say mê Chúa thì đừng mong nói về Chúa cho người khác. Phải chăng anh em Tin lành đã có được niềm say mê này, nên công cuộc PÂH của họ có kết quả rất lớn (tại tỉnh Điện Biên, trong cùng hoàn cảnh khó khăn mà nay có 100.000 tín đồ Tin lành, còn Công giáo chỉ có khoảng 2.000-3.000! Tại Lai Châu, trong khi Công giáo có 15 cộng đoàn (giáo họ) thì Tin lành có đến 200 điểm nhóm).
b/ Công cuộc Tân Phúc Âm hóa đòi hỏi nhiệt huyết mới, phương pháp mới và cách diễn tả mới cho hợp thời đại. Mỗi hội đoàn CGTH cần phải hoạt động theo ba lăng kính trên:
– Nhiệt huyết mới thật cần. Ngày nay, do ảnh hưởng trào lưu duy vật thực hành, lối sống hưởng thụ vật chất, tính toàn cầu hóa, chủ nghĩa tương đối, nhiều người trở thành “tín hữu vô thần” theo kiểu nói của ĐGH Phanxicô, Vì thế người tín hữu PÂH cần có nhiệt huyết mạnh mẽ, đam mê, xác tín mới có thể thuyết phục, lôi cuốn người khác đến chỗ tin vào Chúa. Có những tín hữu cả đời không dám mở miệng giới thiệu Chúa cho người khác !
– Phương pháp mới và thích hợp với thời đại hôm nay. Với sự tiến bộ chóng mặt của công nghệ thông tin, mạng lưới internet phủ khắp toàn cầu, ở đâu và lúc nào, người ta, nhất là giới trẻ, đều có thể lướt net để cập nhật thông tin, nối kết với người khác bằng các trang web, tweet, facebook, instagram, email… chúng ta cần vận dụng các tiến bộ khoa học này để PÂH. Một phương pháp mới thích hợp là “cộng đoàn cơ bản”, chúng ta sẽ được nghe cha Giêrônimô Nguyễn Đình Công, tân Giám đốc các Hội Giáo hoàng Truyền giáo (OPM), thuộc giáo phận Xuân Lộc, trình bày. Rất khuyến khích các hội đoàn CGTH vận dụng những tiến bộ của công nghệ thông tin vào hoạt động PÂH như là phương pháp mới hợp thời đại.”