Mai, lan, cúc, trúc được người đời tôn là tứ quý và được coi là biểu tượng của bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mai vàng là một loài hoa đẹp cao quý chỉ nở mỗi năm một lần đúng vào dịp xuân về.
Với người dân nước Việt, hoa mai đã trở thành sứ giả biểu tượng cho mùa xuân ở vùng đất phương Nam. Thế nhưng ít ai biết rằng ở Quảng Ninh cũng có rất nhiều loài mai, đặc biệt phải kể đến cây mai vàng Yên Tử. Mai Yên Tử có sức sống mãnh liệt, thuộc họ mai vàng có tên khoa học là OCHNACEAE. Các cụ xưa thường gọi giống mai vàng là Kim liên mộc, còn người dân địa phương thì gọi là Mai ký đá.
Cây mai ký đá thường có rễ len lỏi ở các khe đá. Mai vàng Yên Tử sống thành quần thể rừng, ước định trên 800 năm tuổi. Có thể rừng mai cổ này được hình thành từ khi vua Trần Nhân Tông sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, các vị tu thiền đã tự tay trồng và chăm sóc. Mai Yên Tử có điểm khác biệt với các loài mai khác là lá non của nó lúc nào cũng xanh mướt chứ không nhuộm sắc tím, vàng như các giống mai khác.
Yên Tử từ lâu đã nổi tiếng là chốn “non thiêng” và mọi người quan tâm nhiều tới Yên Tử không chỉ vì quy mô, kiến trúc đặc biệt mà chính bởi Yên Tử vốn là một trong những trung tâm Phật giáo Việt Nam. Cũng là hữu duyên khi tôi được trò chuyện với sư thầy Thích Quang Huệ tại chùa Lân (Yên Tử) để được hiểu thêm về giáo lý của đạo Phật và dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Bảy trăm năm qua, Yên Tử nổi danh là phúc địa, gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp phi thường của Đức Hoàng đế anh hùng Trần Nhân Tông, sau hai lần lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống quân Nguyên – Mông thắng lợi (1385-1288), đã từ bỏ ngai vàng về tu tại Yên Sơn, sáng lập ra phái Thiền Trúc Lâm, xây dựng nơi đây trở thành một trung tâm văn hoá, kinh đô Phật giáo của Đại Việt và Người trở thành Đức Phật của Việt Nam. Chợt nhớ đến những câu thơ viết về Người:
Để lại sau lưng cả cung điện vàng son
Những châu báu ngọc ngà, những cung tần mỹ nữ
Ta đến với rừng thiêng Yên Tử
Gió trăng ơi xin hãy đón ta về…
Và tự lúc nào, câu chuyện lại xoay quanh về cây mai vàng Yên Tử. Theo lời sư thầy Quang Huệ, Sơ Tổ khi xưa đã dạy các đệ tử: Hãy buông bỏ hết những cái không buông bỏ được thì chính là cây mai vàng Yên Tử. Qua đó, Điều Ngự Giác Hoàng muốn ám chỉ đến hành giả, chỉ tu thành chính quả khi đã rũ bỏ được mọi vướng luỵ, nhưng điều cao quý nhất không thể nào rũ bỏ được chính là tâm thiền của mỗi nhà sư. Tâm thiền đó được ví như tinh thần, cốt cách của cây mai vàng Yên Tử.
Vẻ đẹp của mai và là vẻ đẹp thanh khiết cao quý, màu vàng tượng trưng cho sự vinh hiển cao sang. Theo thuyết ngũ hành, thì màu vàng thuộc hành Thổ, nằm ở vị trí trung tâm của bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Màu vàng cũng là màu biểu tượng cho nòi giống Việt. Hương của hoa mai còn được gọi là “lãnh hương” bởi trời càng lạnh, hoa càng toả hương thơm. Bất chợt hiểu thêm một chút về hai câu thơ của thiền sư Mãn Giác:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
(Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, hiên trước một nhành mai).
Xuân đến – xuân đi, những ngày xuân trôi qua, nhìn những cánh hoa rơi lìa khỏi thân cành như nhắc nhở dòng thời gian đến – đi, hoa nở – hoa tàn, tóc xanh – tóc bạc. Vòng đời luân chuyển, mọi việc trên đời đều vô thường. Ai cũng đến đi, ai cũng trẻ già, đã là thế nhân làm sao thoát khỏi vòng sinh tử, làm sao thoát được tâm tư khổ luỵ của kiếp người. Lúc được thì vui, khi mất thì buồn. Lúc gần gũi thì hạnh phúc, khi biệt ly thì đau khổ…
Dù vẫn biết, thiền sư Mãn Giác có ý nhắn dạy thế nhân về quy luật vận hành tất yếu của thiên nhiên và vòng tử sinh luân hồi của kiếp người. Nhưng mùa xuân đã qua, tưởng hoa đã rụng hết mà nhà sư vẫn thấy một nhành mai nở muộn lúc xuân tàn? Có thể nhành mai mà thiền sư đã trông thấy chỉ là trong tâm thiền, nhành mai đó chính là biểu tượng cát tường của đời sống.
Kể về mai vàng Yên Tử, bà Lê Chinh Thuần, một trong những Phật tử thuần thành bảo vệ rừng mai cổ, cho biết: “Rừng Đại lão mai vàng Yên Tử này rất linh thiêng, bởi đây chính là nơi các thiền sư đã từng ở. Với tâm thành dâng lên Sư Tổ thiền viện, nhóm Phật tử Minh Thành Tuệ đã làm lễ xin hạt ở rừng Đại lão mai vàng về ươm thành cây để trồng ở chùa Vân Tiêu, Bảo Sái, Hoa Yên…
Đến nay, một số cây mai đã phát triển tốt, khai hoa kết nụ làm đẹp thêm chốn non thiêng trong mùa lễ hội. Trơ gan cùng tuế nguyệt, giữa sương tuyết lạnh lùng, mai vẫn âm thầm đơm hương và đến thời khắc dẫu gió xuân chưa về, mai vẫn khai hoa.
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử. Vì vậy rừng mai cổ Yên Tử phải được gìn giữ, bảo tồn…”.
Lặng ngắm nhìn những thân mai khẳng khiu, thanh thoát mà không yếu đuối; mạnh mẽ, cương trực mà không hề thô kệch và ngắm những nụ mai vàng cứng cáp đang nhú lên trong giá lạnh để chuẩn bị khai hoa đón mùa xuân tới, tôi mới phần nào hiểu được tại sao mai vàng lại chiếm một vị trí quan trọng trong thơ ca cổ đến vậy.
Tạm biệt Yên Tử vào một ngày cuối đông, nghe tiếng chuông chùa ngân nga, nhịp nhàng hoà theo với gió để rồi tan dần trong sương chiều bảng lảng và nghe tiếng Mô Phật thay cho lời chào tạm biệt của các thiền sư vừa hiền hoà, vừa thanh thoát, thấy tâm mình nhẹ nhàng hơn…