Hơn 7 thế kỷ qua trong tâm thức của người dân Việt Nam, Côn Sơn – Kiếp Bạc là nơi gắn bó mật thiết với cuộc đời của 2 danh nhân kiệt xuất: Anh hùng dân tộc Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (1228 – 1300); Anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới – Nguyễn Trãi (1380 – 1442) và là nơi tu hành, nơi viên tịch của thiền sư Huyền Quang (1254 – 1334) – vị tổ thứ 3 của thiền phái Trúc Lâm. Hàng năm cứ vào ngày mất của Trần Hưng Đạo, của Nguyễn Trãi và của thiền sư Huyền Quang nhân dân thập phương từ mọi miền nô nức về đây thắp hương tưởng niệm, tạo lên lễ hội Côn Sơn – Kiếp Bạc.
"Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ" là câu ca nhớ về lễ hội tưởng niệm ngày mất của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và ngày lễ hội thờ Mẫu Liễu Hạnh. Hai vị là người cha, người mẹ thiêng liêng trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc. Trong quan niệm dân gian, mùa thu tượng âm, tháng Tám giữa thu là chính âm. Đức Thánh Trần Hưng Đạo là cha tượng dương, lễ hội giỗ cha vào tháng Tám là âm dương hoà hợp. Âm dương hoà hợp thì vạn vật sinh sôi, nẩy nở. Mùa màng cây cối tốt tươi, vạn sự hanh thông. Lễ hội ở thời điểm chính âm được coi là càng linh thiêng hơn, mọi sự kêu cầu đức Thánh ở lễ hội tháng Tám sẽ được linh ứng. Cho nên trong 3 tháng mùa thu (tập trung vào tháng Tám) nhân dân cả nước lần lượt về đền Kiếp Bạc làm lễ rất đông. Lễ hội tháng Tám vì thế cũng được gọi là lễ hội mùa thu đền Kiếp Bạc.
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thuộc dòng dõi tôn thất nhà Trần. Ông sinh ra trong thời kỳ đầu nhà Trần khởi nghiệp. Suốt cuộc đời, ông đã phụng sự 4 đời vua thịnh trị, mở ra một thời đại rực rỡ – nhà Trần trong lịch sử dân tộc. Ông đã góp phần quan trọng làm nên thắng lợi kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông của nhân dân nhà Trần ở thế kỷ thứ XIII, giữ vững nền độc lập cho dân tộc. Ông là người văn võ song toàn, trung hiếu tiết nghĩa, luôn là tấm gương sáng cho muôn đời sau học tập. Thời chiến ông dựa vào địa thế Vạn Kiếp để canh giữ cửa ngõ Đông Bắc cho kinh đô Thăng Long. Ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý, tức năm Hưng Long thứ 8 (1300) Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mất tại tư dinh Vạn Kiếp. Vua Trần cho lập đền thờ ông ngay trên nền vương phủ, gọi là "Hưng Đạo Vương từ". Nhân dân thập phương quen gọi là đền Kiếp Bạc.
Uy danh cuộc đời và sự nghiệp của ông đã trở thành huyền thoại. Theo đó Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là thanh y đồng tử giáng trần, khi hoá ông trở về trời được Ngọc Hoàng phong làm Cửu Thiên Vũ Đế với sứ mệnh diệt trừ yêu ma, tà đạo ở cả 3 cõi: Thượng giới (thiên đình), trung giới (trần gian), hạ giới (âm phủ) và tiếp tục hiển hoá giúp dân, giúp nước. Với niềm tin đó Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã được dân gian suy tôn là "Đức Thánh Trần". Trên đất nước ta có rất nhiều nơi thờ Đức Thánh Trần. Trong đó đền Kiếp Bạc là nơi thờ chính. Chỉ có ở đền Kiếp Bạc mới có cung Nam Tào và cung Bắc Đẩu phục chầu ở 2 bên, cho thấy Đức Thánh Trần như một hoá thân của Ngọc Hoàng Thượng Đế. Trước cửa đền Kiếp Bạc còn có Cồn Kiếm, tương truyền đây là thanh kiếm thần giúp Trần Hưng Đạo diệt quân Nguyên – Mông xâm lược và chém chết Phạm Nhan. "Thanh kiếm này" Đức Thánh Trần đã để lại trên dòng sông Thương, dưới chân núi Nam Tào là biểu tượng trị thuỷ, ngăn chặn thuỷ quái quấy nhiễu dân lành, không cho chúng dâng nước gây lụt lội làm hại thiên hạ.
Lễ hội đền Kiếp Bạc có quy mô lớn nhất ở châu thổ sông Hồng. Trước đây, mọi người về hội lấy lễ bái, kêu cầu tai qua nạn khỏi, cầu chữa bệnh, diệt quỷ, trừ ma làm trọng. Đàn bà sinh sản đau ốm (trước cho là bệnh Phạm Nhan), con gái hiếm muộn hay người bị yêu ma quấy quả thành bệnh, đều sắm lễ về hội đền Kiếp Bạc nhờ Thanh đồng (đệ tử của Đức Thánh Trần) kêu xin Đức Thánh giải trừ cho là khỏi: "Khói hương mù mịt, từ cổng đền đến sân đền, vào trong cung. Người lễ kẻ cầu, đây xin thẻ, kia bắt tà. Ngọn roi vun vút, trống phách la hét inh ỏi diễn ra rất náo nhiệt tưng bừng và những người đã đến nơi đây không ai là không có lòng kính cẩn, những người về nét mặt hân hoan. Những ngày hội ấy, ai không đi được đều tiếc nhớ ân hận như là đã làm thiếu bổn phận mình".
Truyện xưa kể rằng: Trong đội quân xâm lược, nhà Nguyên có viên tướng tên là Nguyễn Bá Linh. Nguyễn Bá Linh có cha là người Phúc Kiến, mẹ là người Việt. Người mẹ bị long tinh giao phối đã đẻ ra Nguyễn Bá Linh. Nguyễn Bá Linh có phép phù thuỷ, ẩn hiện khôn lường thường tàng hình vào cung điện nhà vua làm chuyên dâm ô, bị bắt phải tội chết. Nó xin vua Nguyên cho theo đội quân xâm lược nước ta để lập công chuộc tội và đã gây nên nhiều tội ác đối với nhân dân ta. Trong trận đánh ở sông Bạch Đằng, Nguyễn Bá Linh bị quân ta bắt sống và bị xử tội chém đầu. Nhưng chém đầu này nó lại mọc đầu khác. Sau phải bôi máu chó và cứt gà sáp lên kiếm mới chém được nó. Khi đem kiếm ấy ra, Bá Linh biết mình không thoát khỏi chết đã kêu xin ăn. Trần Hưng Đạo cho ăn cơm. Ăn xong nó hỏi: "Chết rồi sẽ cho ăn gì", Trần Hưng Đạo nói "cho người ăn sản huyết đàn bà".
Bá Linh bị chém đầu, chết đi uất hận hoá làm tà thần, quỷ quái. Nó đi khắp nước hễ gặp đâu có phụ sản là theo quấy nhiễu làm cho đau ốm, gầy mòn không thuốc nào chữa khỏi. Dân gian gọi nó là ma Phạm Nhan và đến cầu cứu Trần Hưng Đạo. Trần Hưng Đạo viết cho hai câu "Sinh kiếp dĩ ô Trần nhuệ kiếm. Từ hồn do xuyết phụ nhân quần?" (nghĩa là sống đã làm nhơ gươm báu nhà Trần. Nay chết lại còn bám đàn bà làm chi?). Người bị bệnh đem về dán ở nhà là khỏi.
Sau ngày Trần Hưng Đạo mất, gặp nạn Phạm Nhan dân gian về đền Kiếp Bạc làm lễ cầu xin Đức Thánh Trần giải trừ. Họ lấy chiếu của đền mang về cho bệnh nhân nằm. Họ nhờ thanh đồng hầu Thánh bắt ma, xin bùa phép, tàn nhang nước thải đem về nhà cho người bệnh uống. Trước nhu cầu cần chiếu nằm và bình dựng nước thải nên ở lễ hội đền Kiếp Bạc đều có mở chợ. Trong chợ bán rất nhiều sản vật của mọi nơi, nhưng nhiều người vẫn mua chiếu, mua bình đựng nước dâng vào đền làm lễ và xin đem về nhà dùng sẽ được mạnh khoẻ, gia đình an khang thịnh vượng.
Về hình thức bắt tà, trừ ma chữa bệnh thường là hầu bóng, lên đồng. Người có bệnh phải đội khăn đỏ ngồi đồng. Thanh đồng cầm hương làm phép. Cung văn đánh trống, gõ phách, đọc văn sai (gọi là hát chầu văn). Khi ốp đồng, người ngồi đồng tự đánh mình. Thanh đồng quát mắng khảo tra. Khi tà ma cung chiêu nhận tội thanh đồng truyền lệnh Thánh bắt tà ma chịu tội và làm bản sắc không được quấy nhiễu người bệnh. Người có bệnh lĩnh bản sắc đem về nhà yểm sẽ khỏi. Ngoài ra, để tỏ oai Thánh, thanh đồng còn lấy dải lụa tự thắt cổ mình, xỏ chân vào lưỡi cày nung đỏ, uống dầu sôi phun ra lửa hoặc xiên lình, rạch lưỡi cho máu phun ra vẽ thành bùa. Người bệnh đốt bùa hoà với tàn nhang nước thải để uống hoặc đeo trong mình sẽ xua đuổi được ta ma quỷ quái.
Từ xưa, chùa Côn Sơn đã nổi tiếng là một trong 3 chốn tổ của thiền phái Trúc Lâm – một dòng phái Phật giáo mang mầu sắc riêng của dân tộc Việt Nam. Ngày nay mọi tăng ni phật tử, thiện nam tín nữ, người có duyên Phật đều nhớ câu ca: "Côn Sơn, Yên Tử, Quỳnh Lâm, nếu ai chưa đến thiền tâm chưa đành". Chùa Côn Sơn khởi dựng vào cuối thế kỷ thứ XIII và được mở rộng vào năm 1304. Năm 1328, thiền sư Huyền Quang – vị tổ thứ 3 của thiền phái Trúc Lâm về đây trụ trì, tu hành và phát triển đạo phái.
Thiền sư Huyền Quang tên thật là Lý Đạo Tái, năm 1275 ông thi đỗ Thái học sinh, được chọn Tam khôi và ra làm quan dưới triều vua Trần Thánh Tông. Về cuối đời, do có duyên đạo nên năm 1305 ông xin vua cho từ quan, xuất gia tu hành. Năm 1305 ông được thiền sư Pháp Loa – vị tổ thứ 2 trao cho thiền pháp. Từ đó, ông trở thành vị tổ thứ ba của phái Trúc Lâm. Ngày 22 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334), thiền sư viên tịch tại Côn Sơn. Vua Trần Minh Tông cấp cho 10 lạng vàng để xây tháp và đặc phong là Huyền Quang tôn giả. Từ đó trở thành ngày giỗ tổ của chùa Côn Sơn và cũng là nguồn gốc ra đời lễ hội mùa xuân Côn Sơn.
Người đi hội mùa xuân Côn Sơn chủ yếu dâng hương, niệm Phật cầu phúc, cầu tài, cầu lộc và vãng cảnh chùa: “Tục cũ cứ đến đầu năm mới, trai thanh gái lịch các nơi kéo nhau về đây vãng cảnh, đường xá đi lại đông như mắc cửi. thực là một nơi đại thắng tích…" (2). Trước đây, ghi lễ chính của lễ hội mùa xuân Côn Sơn là rước lễ và tế lễ của dân làng 2 thôn Chi Ngại và Chúc Thôn (Chúc Thôn tổ chức vào ngày 16, Chi Ngại tổ chức ngày 18 tháng Giêng ). Theo lời kể của những người già trong vùng hình thức rước lễ được diễn ra thứ tự như sau: