Hiện nay, dụng ý “lập lờ đánh lận” (1) đã rõ, nội dung các ý kiến phản hồi cũng nói lên được phần nào vấn đề. Vì vậy, ở đây, chúng tôi hướng đến mục tiêu tìm hiểu sự hình thành của kỹ thuật thâm hiểm này.
Chúng ta đều biết trời đã có một vị trí nhất định trong đời sống tâm linh người Việt, nhưng đó không phải là ông trời tôn giáo, mà là khái niệm trời hết sức mơ hồ, được hình dung có phần chủ quan…
Chỗ này ông trời có dáng dấp một ông vua – Ngọc Hoàng và một số chùa Phật thờ luôn cả ông “vua” này, trong sự vận hành mang tính bao dung của Phật giáo đại thừa. Chỗ khác, ông trời chỉ là khoảng không bao la phía trên mà người Việt theo đạo Phật vẫn thờ với tên gọi bàn thiên. Ở chỗ khác nữa, ông trời với thuyết Thiên mệnh của Nho giáo, cũng không hình thù gì…Tất cả những ông trời đó đều sống chung với đạo Phật. Vua tế trời nhưng vẫn lễ chùa. Truyện Kiều đậm đà tư tưởng nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật, nhưng vẫn có một ông trời đánh ghen với khách má hồng, để lại có chuyện “nhân định thắng thiên”… Trời tồn tại song song với đất, không phải là chủ tể duy nhất.
Tất cả các ông trời mà đạo Phật đều dung chứa, đối với đạo Thiên Chúa La Mã, ngày mới đến Việt Nam từ những “dương nhân” (người tây dương), đều bị coi là những thứ bị bài trừ: “bụt thần ma quỷ”.
Những người đi cải đạo rất kỵ trời của người Việt, trời của dân tộc bản địa (mà vua là con trời), nên trong giai đoạn đầu của đạo Thiên chúa ở Việt Nam, người ta cố gắng phân biệt trời được cho là ở trong chùa hay trời mà vua cúng tế đó khác với trời trong Kinh Thánh, bằng cách gọi gọi trời trong Kinh Thánh là “chúa Dêu”.
“Chúa Dêu”, một cái tên rất lạ, từ tiếng Bồ Đào Nha, bảo đảm chắc chắn là phân biệt được trời trong cụm từ quen thuộc của người Việt “trời Phật”, mà đã bị đổi tên với dụng ý xấu là “bụt thần”.
Đối với người Việt, bụt với Phật ngang nhau, dù viết hoa hay không viết hoa. Nhưng trời và thần khác nhau xa. Vì vậy, cần phải “hạ tầng công tác” ông trời có quan hệ với đạo Phật đó xuống hàng thần, hay trời “giả”, để bài trừ, bôi nhọ.
Đến thế kỷ XX, từ Dêu vẫn còn được Thiên Chúa giáo tại Việt Nam sử dụng: Trong kinh Tin kính: “Tôi tin kính Dêu cha hay lọn vậy, dựng nên lời đất. Tôi tin kính một con Dêu cha, Jê–su Ki–ri–xi-tô Chúa chúng tôi” và đọc Chúa Dêu trong kinh thánh mừng: “A-ve Ma-ria, đầy ga-ra-sa, chúa Dêu ở cùng bà, nữ trung bà có phúc lạ, bà thai tử Jê-su gồm phúc là Sang-ta Maria. Đức Mẹ Chúa Dêu, cầu cho chúng tôi kẻ có tội, khi nay cập thần đẳng tử hậu. Amen” (2)
Có “Chúa Dêu”, người ta ra sức bài xích ông Trời của người Việt, cố làm cho mọi người thấy có trời giả và trời thật, tức Chúa Dêu: “…song le đức chúa trời chẳng phải loài người ta, thật Mục Mũi trong sách đạo vậy là loài người ta, Mục Mũi ấy chẳng nên chức đức Chúa trời đâu. Sự Ngục Hoàng nó cũng nói như vậy, vì chưng trong sách đạo vậy nói rằng Ngục Hoàng là con cháu Lão Tử, lại trong sách ấy kể cha mẹ Ngục Hoàng: vì vậy Ngục Hoàng chẳng phải thật Chúa trời đất (trang.29 – 30), sự Bàn cổ mà khiến sinh ra trời đất thì dối vậy, như sự Mục Mũi và Ngục Hoàng đã bắt khi nãy” (3).
Như vậy, “có chức” trời thật và có những trời “giả”.
Lẽ tất nhiên là việc đối kháng chúa Dêu với các khái niệm trời bản địa, gộp hết vào đối tượng bài trừ là “bụt thần ma quỷ” không phải là một kỹ thuật cải đạo khôn ngoan. Nó hỗn hào và thô bỉ quá!
Vì thế, ngày nay, để cải đạo hiệu quả, người ta chuyển hướng 1800, biến trời ngày xưa, một ông trời có liên hệ với đạo Phật bản địa, ông trời giả lúc đó, thành ông trời thật, một dạng của “chúa Dêu”.
Lập luận này dễ dàng tìm thấy trên trang mạng hay ở các diễn đàn nhằm mục tiêu cải đạo. Bạn đọc Phattuvietnam.net đã dẫn lại những luận điệu này, vì vậy thiết tưởng không cần trình bày lại chi cho mất thời gian.
Chỉ mong lưu ý được đối với bạn đọc sự chuyển hướng kỹ thuật ngoay ngoắt, giảo quyệt và không liêm sĩ như vậy.
Một sự chuyển hướng như thế không chỉ diễn ra đối với ông trời mơ hồ của người Việt, mà còn diễn ra đối với ông trời cụ thể của các tôn giáo khác. Mục tiêu cũng không gì khác hơn, một sự lập lờ để qua đó việc truyền đạo được dễ dàng. Người ta nhận ra rằng, trời thật hay trời giả đều không quan trọng, mà trời nào giúp cải đạo tôn giáo bản địa thuận lợi thì dùng trời ấy.
Cho nên, người ta dùng cả từ “Allah” để dịch Chúa trời trong Kinh Thánh.
Mặc dù mới đây, việc đồng hóa này đưa lại sự phản đối kịch liệt ở Malaysia, cả bằng biện pháp ôn hòa lẫn những hành vi bạo động bất hợp pháp, những người ta vẫn bám chặt lấy từ Allah.
Thực ra, không cứ gì phải khư khư giữ lấy từ “Allah” để dịch từ Thiên Chúa (God) để kích động thù hằn, gây bùng nổ xung đột tôn giáo, với hàng loạt nhà thờ Thiên Chúa La Mã và Tin Lành bị đốt phá.
Nhưng kỹ thuật “lập lờ đánh lận” như thế là kỹ thuật tốt nhất. Cứ bưng mặt mà dùng.
Đối với Hồi giáo là thế: “Ala” chính là… “God”, còn với Phật giáo Việt Nam, chúa đã ở sẵn… trong chùa: Chúa ở trong câu “lạy trời mưa xuống…”, chúa hiện hữu trong tượng cốt Ngọc Hoàng, chúa ở trên bàn thiên của nhà nhà tín đồ đạo Phật…
Cho nên theo đạo Chúa cũng như là theo đạo Phật đó thôi! Chúa đã sẵn đó, đã thờ, đã kính tự bao giờ. Nay chỉ đổi chút danh xưng, hình thức, không hại gì. Người theo đạo Phật bị cải đạo, có thể không chút ngỡ ngàng, vì như cách nói mượn luôn của nhà Phật, như là tìm lại chính mình mà thôi.
Một chiếc áo khoác mới được mặc lên “chúa Dêu” để người ta đi vào giữa lòng đạo Phật cho dễ.
Kỹ thuật hay mánh khóe?
Phật tử chúng ta nên cẩn trọng: Chúa trong Kinh Thánh và trời, một khái niệm dân gian mơ hồ mà Phật giáo Việt Nam đã dung chứa, là hoàn toàn khác biệt. Một thời những người làm công việc cải đạo đã nói như thế.
Và bây giờ, cũng những người làm công việc cải đạo lại nói ngược lại!