Anh cảm thấy mệt mỏi và ngán ngẩm mỗi khi thức giấc lại nghe những âm thanh dội vào tai để lại di chứng của căn bệnh trầm kha muôn thuở. Kiếp người!
Anh được sinh ra và lớn lên trong một gia đình tương đối khá giả về mặt kinh tế. Cha là kĩ sư của một nhà máy, mẹ là chủ của một tiệm sách với đầy đủ các loại sách cổ kim triết học. Là con trai duy nhất nên anh được thừa hưởng tất cả tình thương của cha mẹ, mặc dù tình thương ấy chỉ là những thời gian ngắn ngủi trong những buổi cơm tối của gia đình.
Nhắc đến tuổi thơ của một ai đó, người ta thường thấy ẩn hiện một bến đò, một dòng sông, một cánh đồng cò bay thẳng cánh, một con diều nhỏ bé tự do bay lượn trên bầu trời… Với anh thì khác. Tuổi thơ không có dòng sông, cánh đồng, con diều hay đại loại một thứ gì đó dính lứu đến đồng quê. Anh vùi đầu vào sách vở ngay từ khi biết đọc, biết viết. Anh bắt gặp hình bóng của đàn cò trắng, của những con trâu đang nhởn nhơ gặm cỏ,… những hình ảnh đó đến với anh, xây dựng trong anh một vùng khói sương xa xăm bình yên và bãng lãng. Một ngày nào đó ta sẽ đến những nơi ta thích, ta sẽ xây dựng một cuộc sống tự do cùng tuế nguyệt,… Nhưng bây giờ thì phải học, học để rạng danh với đời, học để người đời nhìn ta với con mắt ngưỡng mộ, họ sẽ ta thán khi ta xuất hiện và rồi tiếc rẽ khi ta lặng lẽ bước đi.
Rồi những ước mơ của anh cũng trở thành hiện thực sau một quá trình nỗ lực phấn đấu. Anh được tuyển thẳng vào một công ty viễn thông nước ngoài với một chức vụ khá cao và mức lương hậu hĩnh sau khi vừa tốt nghiệp đại học. Không lâu sau đó anh vang danh với một phát minh khoa học để đời. Từ đó tên tuổi anh được mọi người biết đến như là một tinh cầu vừa được phát hiện trong dãy ngân hà. Anh hãnh diện và có phần tự cao trong những lúc xuất hiện trước báo giới, trước các phương tiện thông tin đại chúng. Ánh đèn xanh đỏ của hội trường, của những buổi vinh danh, của những đêm dạ tiệc đã khiến anh thỏa mãn và tưởng chừng như cuộc sống hạnh phúc mà các đấng tối tôn nào đó hưởng thụ cũng chỉ có thế này.
Các tiếng ồn đã kéo anh về với thực tại. Sau một đêm liên hoan chúc mừng cho sự thành công, anh thức dậy cảm thấy nặng đầu và đắng nơi cổ họng. Ta thành công rồi, ta sung sướng rồi, nhưng ta còn cần gì nữa đây giữa cuộc sống hào hoa và chớp nhoáng này? Lại bắt đầu một ngày mới. Sống, làm việc, vui chơi, hưởng thụ, nhà lầu xe hơi,… tất cả ta đã có, nhưng tại sao ta vẫn cảm thấy thiếu thốn. Một nỗi buồn miên viễn đang ngự trị trong ta. Ta cần gì? Anh cảm thấy nhức đầu với những suy nghĩ đó và tìm cách giải quyết bằng cách đi lang thang và hoà nhập vào dòng người tấp nập đang bận rộn với cuộc mưu sinh.
Những bước chân vô tình dẫn anh đến hiệu sách của mẹ. Qua vài lời xã giao với người phụ bán, anh biết mẹ anh đang đi công việc. Anh tiến đến các kệ chứa những quyển sách lịch sử dày cộm và hình như ít ai để ý đến nó. Ngày nay, con người chỉ chú ý đến những gì mới mẻ và có lợi nhuận nên chỉ tìm đọc những cuốn sách dạy cách làm ăn; nào là phương pháp thành công, marketing, kinh tế tài chính, ngoại thương,… ít ai còn quan tâm đến những vấn đề cũ rích và khó nhớ mà những cuốn sách này lưu lại.
Sau một hồi đảo mắt quanh các giá sách, anh chợt ấn tượng khi bắt gặp quyển Lịch Sử Đức Phật Thích Ca. Càng đọc anh càng cảm thấy thích thú với quyển sách lịch sử này. Nó kể về một vị Thái tử của một vương quốc Ấn Độ cổ xưa. Mặc dù vị Thái tử này sống trong cảnh giàu sang và quyền quý, nhưng trong Ngài vẫn khắc khoải về nỗi thống khổ của nhân sinh.
Tại sao con người sinh ra? Tại sao họ lại chịu đau khổ của già, bệnh và chết? Chẳng lẽ đó là sự an bài của một đấng sáng tạo nào đó đã trớ trêu tạo ra con người rồi gieo rắc vào đó nỗi thống khổ để con người van xin cầu nguyện cứu vớt và cười hả hê khi nhìn sự van xin đó? Càng đọc anh cảm thấy có cái gì đó đồng cảm với những suy nghĩ mơ hồ của mình, mặc dù nó không lớn lao như đức Phật nhưng anh vẫn thấy có một tia sáng đã soi roi vào cuộc đời tăm tối mà anh cùng mọi người đang bước đi.
Anh thật sự ấn tượng trước sự lìa bỏ tất cả của đức Phật để ra đi tìm chân lý cứu vớt chúng sinh. Đến đây, trong anh cảm thấy có một luồng sinh khí mới, có một cái gì đó thôi thúc mà anh không thể nào diễn tả bằng lời. Đọc từ trang này đến trang khác, anh say mê và bị cuốn hút bởi sự vĩ đại của Ngài, anh cảm thấy lâng lâng và bất chợt nảy sinh một ý nghĩ táo bạo mà anh chưa bao giờ nghĩ đến. Một ngày nào đó ta sẽ ra đi!
Anh giật thót mình khi một bàn tay chạm nhẹ vào vai. Mẹ anh đã đứng đó tự khi nào mà anh không hề hay biết. Anh cảm thấy sợ, hình như mẹ đã đọc được ý nghĩ trong đầu anh. Sau vài lời thăm hỏi và anh tìm cách lẫn trốn mẹ với một lý do đơn giản: Con xin phép về đi làm! Mẹ anh không một mảy may nghi ngờ và một sự tự hào nổi lên trong bà, nó bị biến mất khi một khách hàng hỏi về giá của một quyển sách ngoại ngữ nào đó.
Từ đó, hàng ngày anh thường xuyên tìm sách về Phật giáo để nghiên cứu. Để tránh bị mẹ phát hiện, anh không đến tiệm sách của mẹ mình mà vào các nhà sách lớn của thị trấn. Càng nghiên cứu anh càng cảm thấy ngưỡng mộ và khâm phục trước nền giáo lý tuyệt vời của đạo Phật. Nhưng trong anh vẫn còn nhiều chỗ chưa được rõ và nhiều vấn đề thắc mắc cần phải tìm bậc minh sư để hỏi cho ra lẽ.
Anh bước những bước thong thả vào một buổi sáng mùa thu mát mẻ với niềm hoan lạc pha lẫn chút khắc khoải và bồi hồi. Chẳng ai nghi ngờ anh cả, anh nói đi du lịch miền quê để thay đổi không khí sau bao ngày làm việc mệt nhọc. Một lý do quá chính đáng.
Xe khách dừng và anh bước xuống một vùng quê với nhiều ngôi cổ tự. Một làn gió nhẹ chào đón anh – viễn khách chốn bụi trường. Cảm giác này thật dễ chịu, anh chưa bao giờ cảm thấy nhẹ nhàng và sảng khoái đến vậy, anh ngửi được mùi lúa mới trổ đòng, hương của một loài hoa dại nào đó đang hoà quyện đùa giỡn với cơn gió. Anh từng nhận được nhiều sự chào đón, có chăng cũng chỉ là sự giả tạm của những bó hoa và băng rôn, biểu ngữ chúc mừng trong cái ngày mà anh nhận giải thưởng khoa học. Gác lại thế sự, ta đến đây để tìm minh sư, tìm “chân lý”.
Đây là một vùng quê hẻo lánh, nhà cửa thưa thớt, khoảng mấy trăm mét mới có một ngôi nhà. Thấp thoáng sau rặng tre là hình ảnh uy nghiêm của những ngôi chùa, những ngôi bảo tháp. Uy nghiêm mà u tịch và cô liêu. Anh thành kính vào các ngôi chùa mà mình đi qua. Qua những lời thăm hỏi anh được biết chư vị cao tăng đã thị tịch và chỉ còn một vài vị đã vào sâu trong núi ẩn tu, để lại chốn hồng trần dư âm và pháp ngữ. Một sự tiếc nuối và ngậm ngùi đang lan toả trong anh. Ta đến đâu để có thể hỏi đạo đây?!
Anh quyết định đi sâu vào núi để tìm chân sư. Anh trải qua một buổi tối ở một ngôi chùa nhỏ. Trong chùa chỉ có một vị sư. Mà chẳng phải sư, nghe vị sãi già nói vị ấy sống cùng với thầy trụ trì lúc còn trẻ và được phép cạo tóc nhưng không chính thức xuất gia, ở vậy để giữ chùa từ khi thầy trụ trì vào núi ẩn tu cho đến bây giờ.
Nghe nói thầy trụ trì đã ngoài tám mươi và vào núi cách đây đã mười mấy năm rồi không thấy về. Một bữa cơm đạm bạc, một ít rau muống, một ít đậu phộng rang và một chén nước tương. Anh ăn một cách ngon lành, không giống như những món sơn hào hải vị mà anh đã từng anh. Nó giản đơn nhưng chứa đựng sự thanh thoát và đạo vị.
Khi ánh mặt trời vừa dẹp một lớp sương mù và phóng những tia nắng đầu tiên qua ngọn núi, anh lên đường. Anh băng nhanh qua những cánh đồng lúa mênh mông; mùi hương lúa mới phảng phất, gió thổi nhẹ làm những lá lúa rung rinh theo một vũ điệu như đã được viết kịch bản sẵn. Gió thổi, lúa đưa. Đâu đó thấp thoáng những người nông dân đang lom khom dưới ruộng, một vài người đi ngược chiều nhìn anh với vẻ ngạc nhiên. Bất chợt anh cảm thấy tự hào về chuyến đi của mình. Không biết nơi đến, cũng như đức Phật quyết chí ra đi nhưng không biết nơi đâu là chốn dừng, chỉ khi nào tìm thấy chân lý mới thôi.
Mặt trời đã lên đến đỉnh đầu. Anh dừng lại và ngồi nghỉ dưới bóng của một rặng tre, nói đúng hơn là một dãy tre dài và sâu hút đến tận chân núi. Anh tiếp tục lên đường. Con đường sỏi đá và quanh co được “rào” bởi hai hàng tre xanh tươi và mát mẻ. Đi hết luỹ tre là có thể thấy những ngọn núi trùng trùng điệp điệp, nhưng vẫn mập mờ bởi mây che phủ. Con đường dường như khó đi hơn. Nó vắt vẻo qua một ngọn đồi nhỏ, để rồi khi đi qua đó là một cảnh tượng hùng vĩ hiện ra.
Trước mặt anh là cả một bức tranh mực tàu thời cổ của Trung Quốc. Núi liền núi, những dòng suối vắt qua các sườn núi để lại những vệt màu trắng như những nét chấm phá của hoạ sĩ thiên nhiên nhằm tôn vinh sự vĩ đại của núi đồi. Anh cảm thấy lòng mình khoan khoái và nhẹ nhàng, dành từng giây từng phút để tận hưởng cái trong lành và kì vĩ mà thiên nhiên ban tặng. Thế mà con người trần tục không biết thụ hưởng món quà tặng vô giá này!
Hơi đá, mù sương và mây quyện vào nhau làm xoá đi ranh giới giữa trời và đất. Tận hưởng cảm giác an lạc nhưng anh vẫn không quên mục đích mình đi đến chốn sơn cùng thuỷ tận này. Rảo mắt khắp bốn phương, anh không thấy bóng dáng của một ngôi chùa hay một am tranh nào cả. Hay tất cả đã về với quên lãng, chư Tổ đã phủi áo hồng trần để về miền Cực Lạc? Vòng qua một khúc quanh, anh bắt gặp một làn khói mờ đục bốc lên sau những cây tùng lâu năm. Chắc chắn có người ở. Anh tiến sâu vào rừng, đến nơi đã toả ra làn khói đó.
Khuất xa, sau những cội tùng già cỗi, ẩn hiện một túp lều tranh. Anh tiến nhanh lại gần căn lều đó, đúng là khói bay lên từ đây. Đây là một căn nhà nhỏ, mái tranh đã bị mục nhưng trông chắc chắn và gọn gàng. Trước sân là một bàn đá với bốn cái ghế nhỏ được làm bằng gỗ cũng đã mục. Tiến vào trong nhà, mùi hương trầm thoang thoảng và dễ chịu. Anh nhận thấy có ai đó đang ngồi bất động sau bức mành được kết bằng lá tranh. Không biết nghĩ sao, anh ra phía bên ngoài cái bàn và ngồi đó chờ đợi. Khoảnh khắc này làm anh nhớ đến sự cầu pháp của các thiền sinh mà anh đã được đọc đâu đó trong tiệm sách.
Ý niệm về thời gian hình như không còn tồn tại. Một phong cảnh hữu tình, không khí trong lành hoà quyện với mùi trầm làm tâm hồn anh khoan khoái. Giá mà thời gian dừng dừng lại. Tiếng chim lợn kêu làm anh bừng mở mắt. Trời đã ngã về chiều, những tia nắng cuối cùng của một ngày vẫn như đang níu kéo không chịu nhường chỗ cho màn đêm.
– Anh đã ngồi đây hơn hai tiếng đồng hồ rồi đó. Một giọng nói ấm và hơi khàn.
Trước mặt anh là hình ảnh của một vị sư già, quắc thước, nhưng trong ánh mắt rất có thần. Chắc hẳn một người có lực tu tập thiền định sâu sắc mới có ánh mắt đó.
– Kính bạch thầy, con là người từ miền xuôi lên với một mong ước duy nhất là tìm minh sư để hỏi về một số vấn đề mà con khúc mắc bấy lâu nay. Anh vào thẳng vấn đề và nói một cách tha thiết.
– Ra đằng sau rửa mặt rồi vào dùng cơm tối. Vị sư vừa nói vừa quay lưng bước vào trong.
Lòng anh cảm thấy một cảm giác lâng lâng khó tả. Anh nghĩ chắc mình đã gặp được minh sư, vậy là những gì mình quan tâm và thắc mắc bấy lâu nay sẽ được giải quyết.
Tối hôm đó, trời trong và xanh vô tận. Hai người ngồi đối diện nhau uống trà trong tĩnh lặng. Họ uống luôn cả cái tinh khôi và trong lành của khí trời. Anh không dám nói một lời nào, mặc dù trong anh còn ngổn ngang bao mối nghi ngờ.
– Con người do chấp trước vào cái thấy biết hạn hẹn của mình mà chịu nhiều khổ đau. Giọng sư đều đều – Họ cứ nghĩ rằng mình thông kim bác cổ, thấu suốt thiên hạ, ai ngờ những cái thấy, cái biết đó lại là sở tri chướng cho con đường đạo. Họ cứ ngỡ rằng mình đang sống hạnh phúc và sung sướng. Họ hưởng thụ và chìm đắm trong các cuộc hoan lạc của ngũ dục và bị nhấn chìm trong vũng bùn của tội lỗi.
Những lời lẽ đơn sơ nhưng mà nghe sao đầm ấm và ngọt ngào đến thế. Anh chợt rùng mình khi nghĩ đến những ngày vui chơi và hưởng thụ của bản thân ở chốn phồn hoa đô hội.
– Họ đâu có biết rằng lưỡi hái của tử thần bất chợt sẽ lấy đi tất cả, không hẹn mà đến. Sư tiếp – Ngũ dục ơi mi là chi mà bao nhiêu kiếp luân hồi rồi mà vẫn không chịu buông tha cho thế nhân, haha. Không phải, tự con người chìm đắm trong đó đấy chứ.
Nói đến đây sư nhìn anh với cái nhìn đầy thương cảm. Sư nói – Ta chỉ là một trong vô số chúng sinh đã chịu chi phối của ngũ dục trong vô lượng kiếp. Giờ đây mới thấy được chút ánh sáng và đang trên lộ trình đi đến đó. Con đường thì dài lại còn nhiều cạm bẫy, đã có vô số người đã đi lạc vào ác đạo, cảm thương thay!
– Cũng vì lí do đó con mới đến đây. Anh vừa nói vừa quỳ xuống tha thiết – Kính xin hoà thượng hãy nhận con làm đệ tử và hướng con về với chính đạo. Con cũng biết cuộc đời có rất nhiều mối nguy hiểm và cam go, cho nên sự hướng dẫn của hoà thượng sẽ là ánh sáng soi rọi cho con trên con đường hắc ám này.
– Ta là thầy thuốc, có tâm nguyện chữa căn bệnh trầm kha của nhân loại. Sư thở dài – Người đời hỷ nộ ái ố nhiều, dù có linh đơn diệu dược cũng đành đứng nhìn mà thương cảm, cái gốc âm dương thuỷ hoả kia là đầu mối của mọi vấn đề! Cho nên khi Bồ-tát quán thấy nó là không thì liền vượt qua hết thảy khổ ách và ung dung tự tại cùng tuế nguyệt.
– Chống gậy lên non khi chí thích
Mệt buông rèm trúc ngủ dường tre.
Một tràng cười giòn và to xé tan màn đêm dày đặc, u huyền và thâm viễn.
Anh không hiểu thâm ý của nụ cười đó, nhưng trong anh đã thắp sáng được rất nhiều điều. Mọi khúc mắc, nghi vấn trong anh như tan theo làn sương sớm trước ánh mặt trời. Anh cảm thấy ấm áp trong từng lời dạy của sư, nó lan toả khắp châu thân, xua tan mọi não phiền và đang dần dần đập vỡ cái khối kiến thức hàn lâm đã đóng thành từng cục lớn trong anh.
– Hãy ở lại đây cùng ta, ngắm hoa thưởng nguyệt, sống một cuộc đời vô phiền vô lo và khi nào thấy cái khối âm dương thuỷ hoả của mình đã được tự tại thì hãy vào đời mà dẫn dắt chúng sinh. Giọng sư chùng xuống – Còn nhiều cảnh lầm than lắm!
Chưa bao giờ anh có cảm giác hạnh phúc như vậy. Cuộc đời như một giấc mơ dài, lúc ẩn lúc hiện như trêu ngươi con người. Ta đã thấy mi rồi! Ta đã tìm ra được câu trả lời cho căn bệnh trầm kha của kiếp nhân sinh và ta sẽ rời xa mi, bỏ mi như bỏ một miếng dẻ rách! Haha, thật tuyệt!
Rừng núi vẫn cái vẽ âm u và huyền bí muôn thuở…