Rừng thiền trầm thủy hương xông,
Chiên đàn tuệ uyển vun trồng công lao.
Vót hình cây có giới đao,
Lò lòng khói tỏa ngạt ngào kính dâng.
Nam mô Hương Cúng Dàng Bồ tát Ma ha tát (3 lượt)
Hương hoa sực nức, đèn nến sáng choang,
Sắp đặt giường thiền kính thành khai lễ.
Cửa thiền rộng tựa cửa biển khơi,
Lối đạo truyền lại muôn đời còn đây.
Phúc tuệ che phủ như mây,
Nhiệm mầu lý tỏa khắp rày hà sa.
Đèn tuệ sáng tỏ bao la,
Trống Pháp rung chuyển nhà nhà đều nghe.
Mưa lành mát mẻ suối khe,
Đất lành rộng rãi đâu nề thấp cao.
Nối đèn tiếp đuốc công lao,
Mở mang giáo pháp tự hào tông môn.
Phật tiền chầu chực sớm hôm,
Quê nhà Cực Lạc gửi hồn tiêu dao.
Trọn niềm thành kính khát khao,
Gieo mình năm vóc trên cao thấu tình.
Thung dung nơi Phật điện,
Ánh sáng tỏa tầng không.
Chân tính hằng phẳng lặng,
Hiển hiện rõ hình dung.
Yên Khánh hình thành thế núi sông,
Ninh Bình sinh quán nếp nhà nông.
Nhà thanh tiếng sạch noi truyền thống,
Một nắng hai sương mến ruộng đồng.
Hiếu hạnh dưới trên đều thuận thảo,
Cắp sách cầu thầy há quản công.
Đồng chân nhập đạo khi thơ ấu,
Thiền môn quy củ sớm làu thông.
Viên Minh Tổ nghiệp hằng tu bổ,
Dương Phạm sơ cơ lúc khải mông.
Gấp y, ôm bát về Tây vực,
Pháp chủ thiền gia rạng Tổ tông.
Nam mô Ứng Thế Sư Bồ tát Ma ha tát (3 lượt)
Trộm nghĩ:
Lý nhờ Sự tỏ, Thực dựa Quyền hay. Túc duyên đã có từ lâu, Quả kết lưu truyền nay đủ. Cội nguồn phương hướng cảm nhận bởi lòng. Cung nghinh tôn đức về đây, phải mượn giường thuyền đưa đón. Nay nhờ Pháp thủy tẩy rửa nhà tang. Đọc kinh văn trong giáo điển, niệm bí chú để gia trì, một giọt rời tay vạn ban đều sạch.
Mật giáo có chân ngôn sái tịnh:
Đầu diện đính lễ Thất Câu Chi,
Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề,
Duy nguyện từ bi thùy gia hộ.
Nam mô tát đá nẫm Tam diểu tam bồ đà Câu chi nẫm đát điệt tha. Án chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề Sa Bà Ha (3 lượt)
Dùng nước là do rửa bụi trần,
Bụi trần đã sạch, nước thường trong.
Nhẹ nhàng một giọt cam lộ rảy,
Mát mẻ sơn hà đượm vẻ xuân.
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ tát Ma ha tát (3 lượt)
Kính nghe!
Trai bàn thanh tịnh, trước là bày tỏ tấm lòng son. Chiếu Pháp trang nghiêm, sau để gởi thành nương ngọn khói. Sở dĩ hương này nuôi dưỡng tự tiên thiên. Nào phải Bồng Đảo Doanh Châu sản xuất. Ngát thơm cùng đại địa chẳng từ nơi Hải Ngạn sinh ra. Phẩm chất vượt cả trầm đàn, giá trị ngát hơn lan xạ. Khói lành bốc tỏa, đều từ tam muội lửa tuôn ra. Diêm lạ tung bay, vốn tự khí nhất nguyên lùa tới. Lớp lớp đỉnh đầu đều thấu triệt, người người phổng mũi thẩy nghe hương. Cúi đầu dâng trước án, ngửa mặt nguyện chứng minh. Giáo có chân ngôn niệm hương xin thành tâm phúng tụng:
Năm phần hương tốt tỏa mùi thơm,
Vun trồng gốc rễ tại tâm vương.
Viên Minh tính hải đều hay biết,
Nguyện kết đài mây phả cúng dường.
Nam mô Hương Cúng Dường Bồ tát Ma ha tát (3 lượt)
Mảng nghe
Ý Yên nơi trước đến, Quang Lãng chốn sau nương. Vốn xưa trí tính đã thông, nay gặp cơ thiền càng sáng láng. Rộn rã sóng triều tuyên diệu kệ, hân hoan mây rẽ thấy kim thân. Để dấu vết tại Phú Xuyên, lưu công huân thành Hà Nội. Nghe lời hiểu ý, thấy cảnh biết người. Giáo có chân ngôn thành tâm triệu thỉnh:
Mượn tiếng kim linh xin khải thỉnh,
Giác linh chân tính vẳng xa nghe.
Nay bằng bí ngữ đã gia trì,
Tháng tốt ngày lành xin hiển hiện.
Nam Mô Bộ Bộ Đế Lị Dà Lị Đá Lị Đát Đá Nga Đá Da (3 Lượt)
Chân ngôn triệu thỉnh phúng tụng đã xong, hết thảy một lòng thành tâm bái thỉnh. Hương hoa thỉnh.
Nhất tâm bái thỉnh: Ninh Bình bản quán, Yên Khánh quê hương. Nhân duyên ước nguyện từ xưa, kết quả lưu truyền hiện tại. Cơ ngơi thanh bạch Bùi tộc gia phong. Khí huyết do phụ mẫu sở sinh, tính tình bởi đất trời hun đúc. Núi Diều sông Gián tài bồi, cửa Khổng sân Trình đào tạo. Ấu thơ sớm hiểu lẽ vô thường, xuất gia vội tìm phương giải thoát. Chùa Phúc Long thế phát. Cảnh Dương Phạm cầu sư. Ý Yên – Yên Khánh đâu xa. Khánh Phú – Khánh Tiên chẳng lạ. Chốn Tổ Đống Cao sa di thập giới. Viên Minh, Quang Lãng cụ túc thanh văn. Tổ Tâm An y chỉ sơ cơ, Tổ Quảng Tốn đường đầu hòa thượng. Trúc Song làu thuộc bốn năm trang, Bát Nhã bình văn ba bảy mạch. Chí khí siêu phàm, tâm hình dị tục. Tiết sạch giá trong, khuôn vàng thước ngọc.
Cung duy: Nam mô Lâm Tế tông Viên Minh tháp Ma ha sa môn Pháp húy thượng Phổ hạ Tuệ hiệu Phổ Thông Hòa thượng Giác linh thiền tọa hạ.
Xuất thế ư Đinh Tỵ niên, trụ thế nhất bách linh ngũ tuế. Tiện siêu ư Tân Sửu niên Cửu nguyệt Thập Lục nhật Dần bài thuận tịch Tây quy.
DUY NGUYỆN
Mây hợp, mây tan trời vẫn lặng. Nước ngừng nước chảy, bóng thường soi. Thỉnh giáng Thiền đường chứng minh công đức. Hương hoa thỉnh.
Nhất tâm bái thỉnh: Dáng hiền đã khuất, cây đức còn tươi. Sông Hồng cuồn cuộn nước trôi xuôi, tre lũy xanh xanh chồi nở rộng, bãi mía bạt ngàn, ruộng ngô thẳng cánh. Đồ hoa tạng giát vàng chói lói, Phật tượng trang nghiêm. Tháp đổ ba móc ngọc lạnh lùng, di hài cô tịch. Bình sinh tính tình giản dị. Xử sự khí tiết kiên cường. Duy trì cổ đức quy mô, kiến tạo nhân thiên phúc chỉ. Phải khi đất nước chiến tranh, Quán Sứ duy na đảm nhiệm, dân chúng tu trì. Được lúc thiên hạ thái bình, Quang Lãng giáo viên, dạy trò học tập. Ruộng đất cấy trồng tự túc, ao vườn rau cỏ qua ngày. Tiền kiếp Thọ Xương, hậu thân Pháp chủ. Làm tròn sứ mệnh hóa độ đa phương. Tiếp chúng độ nhân tùy duyên bất biến. Khai tràng thuyết pháp, truy tố mông ân. Thí giới truyền thừa, tăng ni ngưỡng mộ. Sa Bà ấn hoại, Tịnh Độ văn thành.
Cung duy: Nam mô Lâm Tế tông Viên Minh tháp Ma ha sa môn Pháp húy thượng Phổ hạ Tuệ hiệu Phổ Thông Hòa thượng Giác linh thiền tọa hạ.
DUY NGUYỆN
Muôn sông đầy nước muôn trăng rọi. Vạn dặm mây quang vạn dặm xanh. Thỉnh giáng thiền đường chứng minh công đức. Hương hoa thỉnh.
Nhất tâm bái thỉnh: Bản thể không sinh, không diệt, Pháp thân chẳng đến, chẳng đi. Vốn chưa mở cửa càn khôn, sẵn đã đủ đầy thể dụng. Không sau, không trước, chẳng sạch, chẳng nhơ. Không sinh hóa thời không hóa, không sinh. Có hóa sinh, nên có sinh, có hóa. Tâm phái Tào Khê tâm viên giác. Đạo dòng Lâm Tế đạo tinh minh. Vui cùng đồng ruộng thênh thang, mến chuộng ao vườn thoáng đãng. Danh cương lợi tỏa nào có quan tâm. Chức trọng quyền cao coi như mộng ảo. Thao danh chẳng được, hối tích không xong. Mấy khóa tái cử Pháp chủ thiền gia. Ba miền suy tôn cao tăng toàn quốc. Phúc tuệ khắp Sa Bà, Chân thân về Tịnh Độ.
DUY NGUYỆN
Pháp ấn rạng ngời. Quyền, thật, từ, bi, đà trọn vẹn. Minh tinh bóng khuất. Non, sông, hoa, cỏ, thảy buồn thương. Thỉnh giáng thiền đường, chứng minh công đức. Hương hoa thỉnh.
Nhất tâm bái thỉnh: Đồng đàn pháp tịnh nhân. Giữ gìn đạo hạnh tinh nghiêm, sớm về Cực Lạc. Kiên cố thành tâm tụng niệm, giải thoát trần duyên. Cù lao chín chữ nhiều kiếp gia nương. Uống nước nhớ nguồn, luôn nhớ non cao biển rộng. Công đức bốn ơn, muôn đời thầy bạn. Núi đổ chuông ngân. Người mất kẻ còn ơn sâu nghĩa nặng. Đàn na thiện tín, bá thí cúng dàng Tịnh Độ.
Vãng sinh mở cảnh xây chùa
Tạo tượng đúc chuông u đồ thoát hóa.
Hiện tiền phúc tuệ dồi dào,
Mai một Di Đà thụ ký.
Phục vì siêu tiến hiển khảo Bùi Công Húy Quang Oánh chân linh, hiển tỷ Nguyễn Quý Thị Húy Thanh chân linh, phả cập cao tằng tổ khảo, cao tằng tổ tỷ, bá thúc huynh đệ cô di, tỷ, muội, tự tha tiên vong, á thân liệt thích nhất thiết đẳng hồn đồng thừa tổ lực, các nhuận ân ba, thỉnh giáng đạo tràng quân triêm pháp lực.
DUY NGUYỆN
Hai chữ âm dương nghe có lạ. Một đường sinh tử lối về chung. Thỉnh giáng linh sàng, thụ tư cúng dàng. Hương hoa thỉnh.
Trên dưới phụng thỉnh đã xong, lại có chân ngôn tuyên đọc:
Đường đường tôn đức giáng trai diên,
Nghi ngút hương mây rước thánh hiền.
Tự tại thung dung về Tịnh Độ,
Khuông phù trụ sứ vĩnh diên niên.
Nam mô Vân Lai Tập Bồ tát Ma ha tát (3 lượt)
Trăm thức đem dâng, cúi xin tôn đức chứng thành. Một dạ ân cần dưới chiếu môn nhân, tha thiết hiến chân nhân. Chú hiến thực cam lộ phả cúng dàng.
Nam Mô Phả Cúng Dàng Bồ Tát Ma Ha Tát.
Cơm Hương Tích, bếp Thiên Trù, độ song y bát đã đang thu. Đường mây, dép cỏ về Tây trúc. Tự tại ưu du, Pháp tính vẫn như như. Chứng giám đan thư sở tấu văn từ. Hạnh đối tôn sư, duy nguyện nạp vô tư. (Đọc xong)
Thượng lai văn sớ tuyên đọc vân chu,
Sớ đối tôn từ dụng bằng hỏa hoá. (Tụng Tâm Kinh)
Nam Mô Đăng Vân Lộ Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lượt)
Phó hội ngày nay mới đến thăm,
Hai miền chia cắt đã bao năm.
Chung lòng thưởng thức nồi cơm nhạt,
Họp mặt hàn huyên chuyện cũ hâm.
Tu đạo cùng vui tìm thấy tính,
An thiền đã thỏa nhận ra tâm.
Trùng phùng giấy bút làm sao tả?
Gương cũ cùng soi thấy giả chân.
Tình đậm thủy chung, những ước trăm năm cùng bạch nghiệp;
Đường chia Nam Bắc, khôn cầm một mảy tấc lòng son.
Ô HÔ!
Vườn Kỳ mây ám, núi Thứu tuyết phong. Mây ảm đạm, gió lùa mây chạy. Tuyết lạnh lùng, nắng dãi tuyết tan. Nhìn sao, sao đã lụi tàn. Nhìn nước, nước đã chảy tràn về Đông. Di hình gửi tháp rêu phong. Cây tùng gió thoảng ai không mủi lòng.
Một đốm linh quang thật diệu huyền!
Chẳng sinh chẳng diệt tự thiên nhiên.
Vận dư, văn bút cùng ai họa?
Tiễn biệt đường mây ngọn gió xiên.
Nam Mô Sinh Tịnh Độ Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lượt)
Chung
Kính in ngày 16 tháng 9 năm Tân Sửu
Trưởng lão Phó Pháp chủ Thích Trí Tịnh soạn