Trang chủ Tin tức Huế: Tưởng niệm 41 năm Đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết viên...

Huế: Tưởng niệm 41 năm Đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết viên tịch

234

Hôm nay, chư Tôn đức Tăng Ni đến dâng hương thành kính đảnh lễ tưởng niệm 41 năm ngày Đức Trưởng lão Đệ nhất Tăng Thống viên tịch cũng là tưởng niệm đến công hạnh tu tập và hoằng dương Phật pháp của Ngài đã nhiếp phục được nội ma, ngoại chướng và lèo lái con thuyền Giáo hội đến một thời kỳ hưng thịnh, đóng góp công sức lớn lao vào trang lịch sử vàng son của Phật giáo Việt Nam thời đại hôm nay và mai sau.

Hương án tôn trí Đức Trưởng lão Đệ nhất Tăng thống

Đại hùng bảo điện

Tiền đường Tổ đình Tường Vân

Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Chơn, viện chủ Tu viện Quảng Hương Già Lam – Sài Gòn

Bảo tháp nơi tôn trí nhục thân  Đức Tăng thống

Trưởng lão Hòa thượng Phó Pháp chủ quang lâm 

Đến dâng hương đảnh lễ Đức Đệ nhất Tăng thống có Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Phương, Phó Pháp chủ HĐCM GHPGVN, Giáo Phẩm Chứng minh Ban Trị sự, Trưởng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế, trú trì Quốc tự Diệu Đế, chùa Tra Am, chùa Lam Sơn, chùa Bạch Vân – Huế; Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Chơn, Viện chủ Tu viện Quảng Hương Già Lam – Sài Gòn; chư Tôn Giáo phẩm HĐCM, HĐTS, chư Tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni các Ban ngành trực thuộc Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế, chư Tôn đức Ban Trị sự các huyện thị, chư Tôn đức trú trì các Tổ đình, tự viện, tịnh xá, tịnh thất, Niệm Phật đường trong tỉnh Thừa Thiên Huế và các tỉnh thành lân cận.
 

Chư Tôn đức đảnh lễ cung thỉnh Hòa thượng Phó Pháp chủ

Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Phương dâng hương đảnh lễ

Chư Tôn đức đệ tử của Đức Tăng thống

Ngài tên thật là Nguyễn Văn Kính, sinh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão (1890) tại làng Dưỡng Mong Thượng, xã Phú Mỹ, quận Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, con trai thứ 3 của cụ Nguyễn Văn Toán và bà Tôn Nữ Thị Lý.

Năm lên chín tuổi, Ngài bắt đầu theo học chữ Nho. Với tư chất thông minh, chẳng bao lâu Ngài đã tinh thông những bộ sách căn bản của Nho học. Nhưng có lẽ do túc duyên nhiều đời, chí xuất trần đã sẵn, nên sau sáu năm sách đèn theo Khổng học, Ngài quyết chí xin song thân được cùng người anh ruột xuất gia tu học tại chùa Tường Vân, làng Dương Xuân Hạ, quận Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên, thụ giáo ngài Thanh Thái (dòng thiền Lâm Tế) đệ tam tổ chùa Tường Vân. Ngài được Tổ nhận làm đệ tử ban Pháp danh là (thượng) Trừng (hạ) Thông, tự Chơn Thường.

Sau 3 năm, Ngài đã học xong chương trình trung đẳng Phật học. Mặc dù trong thời gian mới nhập đạo này, đúng theo truyền thống Thuyền Tông, Ngài phải chấp tác rất nặng nhọc, ngoài việc học hành kinh kệ.

Vốn bẩm tính thông minh, sẵn có một đạo phong uy nghi từ lúc hãy còn nhỏ tuổi, nên Ngài rất được các bạn đồng tu kính nể. Cũng do tư chất đặc biệt xuất chúng ấy, mà Ngài đã được đặc cách miễn tuổi để thụ tam đàn cụ túc vào năm 19 tuổi (năm 1910), chỉ 3 tháng sau khi thụ Sa-di giới. Đại giới đàn này do Ngài Vĩnh Gia làm Đàn đầu. Ngài Tâm Truyền làm Yết Ma và ngài Hoằng Phú làm Giáo thụ. Sau khi thụ cụ túc giới trở về chùa. Ngài phát tâm lạy bộ vạn Phật nhất tự nhất bái suốt ba năm liền. Và đến năm 23 tuổi thì song thân Ngài từ trần cùng một lượt, ứng theo một lời nguyện khi sinh tiền của hai Cụ là được vãng sinh cùng một lúc.

Năm 26 tuổi, Ngài được bổ xứ Trụ trì chùa Phước Huệ là chùa của Tuy Lý Vương lập cho một vị công tôn xuất gia tại Vỹ Dạ.

Năm 30 tuổi (1921) Ngài đắc Pháp và được Bổn sư cho kệ:
 
澄 聰 心 法 本 同 然
付 汝 真 常 道 志 堅
非 有 非 無 非 所 見
寂 然 開 悟 主 人 前

Phiên âm:

Trừng Thông tâm pháp bổn đồng nhiên,
Phó nhữ chơn thường đạo chí kiên.
Phi hữu phi vô phi sở kiến,
Tịch nhiên khai ngộ chủ nhơn tiền.

 
Tạm dịch:  
 
Tâm, pháp Trừng Thông vốn tự đồng
Đạo thường, chí vững gởi trao ông
Chẳng không, chẳng có, không gì thấy
Trước chủ nhân khai ngộ lặng trong.

và cho đạo hiệu là Tịnh Khiết. Ngài thuộc đời thứ 42 dòng thiền Lâm Tế, đời thứ 8 pháp phái Liễu Quán Nam Hà. Năm Ất Hợi (1935) đời vua Bảo Đại triều Nguyễn; Pháp huynh của Ngài trú trì Tổ đình Tường Vân viên tịch, Ngài được kế thế ngôi vị Trú trì từ đây. Năm này Ngài được 44 tuổi đời. Ngài thường được thỉnh vào cung nội để giảng Pháp cho Hoàng gia, nhất là cho Tam tôn cung tức là các bà Thánh cung, Tiên cung, và Từ cung.

 
Năm 32 tuổi, Ngài trở về Tổ đình cư tang Nghiệp sư viên tịch. Sau đó Ngài theo học lớp Cao đẳng Phật học với Hoà thượng Huệ Pháp chùa Thiên Hưng. Ngài Phước Huệ chùa Thập Tháp, tham cứu kinh điển Đại thừa suốt thời gian 5 năm.

Năm 42 tuổi, Ngài làm dẫn thỉnh sư tại Đại giới đàn Từ Hiếu.

Năm 44 tuổi, Ngài trở về trú trì chùa Tường Vân, kế vị Hoà thượng Tịnh Hạnh là anh ruột Ngài vừa viên tịch.

Năm 1938 Ngài làm Chứng minh Đạo sư sáng lập An Nam Phật học hội.

Năm 1940 Ngài làm Giám đốc Đạo hạnh, Cao đẳng Phật học viện mở tại Tổ đình Tường Vân và Báo Quốc, có những Tăng sinh về sau trở thành những bậc pháp khí như cố Hoà thượng Thiện Hoa, Hoà thượng Thiện Hoà, Hoà thượng Hành Trụ, Thượng toạ Trí Tịnh, Thượng toạ Thiện Siêu, Thượng toạ Thiện Minh, Thượng toạ Trí Quang…

Năm 1944, Ngài làm Yết Ma Đại giới đàn mở tại Tổ đình Thuyền Tôn.

Năm Ất Dậu (1945), Ngài phó pháp cho Pháp tử Pháp danh Tâm Ấn, tự Vĩnh Thừa, hiệu Viên Quang đời thứ 43. Trong dịp này, Ngài ban cho đệ tử đắc pháp bài kệ dưới đây:

Hán văn: 

心 印 圓 明 悟 道 先
參 禪 了 達 透 真 源
拈 花 付 汝 如 來 藏
續 焰 玄 燈 萬 古 傳。

Tâm ấn viên minh ngộ đạo tiên
Tham thuyền liễu đạt thấu chơn nguyên
Niên hoa phó nhữ Như lai tạng
Tục diệm huệ đăng vạn cổ truyền.

Tạm dịch:  

Sớm ngộ đạo mầu Tâm ấn sáng
Tham thiền đạt trọn thấu nguồn chơn
Nên học, ta gởi Như lai tạng
Đèn tuệ muôn năm vẫn nối truyền.

Năm 1947, Ngài thụ phong chức vị Tùng Lâm Pháp chủ Trung Việt.

Năm 1949 (Kỷ Sửu), Ngài làm đàn đầu Hoà thượng cho đại giới đàn Báo Quốc và năm 1950 thì được suy tôn chức vị Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam.

Năm 1951, Ngài ra Bắc chủ toạ Đại hội Giáo hội Tăng già toàn quốc tại chùa Quán Sứ, Hà Nội.

Năm 1952, Ngài trở vào Nam chủ toạ lễ truy phong Pháp chủ Phật giáo Nam Việt tại chùa Ấn Quang.

Năm 1955 Ngài tham dự đại hội Phật giáo Thế giới tại Tích Lan và chiêm bái Phật tích tại Ấn Độ. Trong cuộc hành hương này Ngài có cảm tác hai bài kệ chữ nho như sau:

Bài thứ 1:

Đạp tuyết phong vân quá hải hà.
Du du hốt kiến lâu đài đa
Bảo tháp thất từng kim tú lệ,
Bồ Đề thiên trượng ngọc bích hoa.
Cảnh tối thâm u tần đáo tự
Duy thường ái tịch niệm Thích Ca
Nhân duyên Bồ-tát khai phương tiện
Nhiếp tận chúng sinh lễ Phật đà.

Nguyên Hồng dịch:

Lướt mây cưỡi gió mấy dặm xa,
Lâu đài chợt hiện tựa sao sa.
Tháp báu bảy tầng vàng chói lọi,
Bồ-đề muôn trượng ngọc đơm hoa.
Cảnh giới trang nghiêm từng đặt bước,
Tâm tâm niệm niệm lễ Thích-ca.
Nhân duyên Bồ-tát khai phương tiện,
Độ khắp chúng sinh trở lại nhà.

Bài thứ 2:

Lâm quang tịnh mậu trước thi biên
Phật quốc du ký hữu đại duyên
Tận địa kim ngân triệt vũ trụ
Thanh phong châu ngọc mãn nhân gian
Bồ đề thành đạo trang nghiêm cảnh
Lộc uyển sơ niên chuyển pháp tiên
Ấn Độ hoa khai chân tịnh xứ
Kỳ viên trùng kiến tợ thiền thiên.
Tạm dịch:   Cây rừng là bút viết nên thơ,
Nước Phật bao năm những đợi chờ.
Trải khắp bạc vàng nghiêm cõi Phật,
Ngàn phương châu ngọc lẽ đâu mơ.
Bồ-đề cổ thụ nay còn đó,
Lộc uyển vườn xưa đã xứng cơ.
Ấn Độ khai hoa chân thị hiện,
Kỳ viên hội ngộ tự bao giờ.

Nhiếp hoá đồ chúng.

Mặc dù công việc đối ngoại của Giáo hội đa đoan, Ngài vẫn không bao giờ xao lãng việc nhiếp hoá đồ chúng tuỳ căn cơ trình độ. Trong một mùa an cư, Ngài đã gởi đến quí vị Đại đức Tăng Ni những lời huấn dụ như sau: “Đạo Phật tồn tại không chỉ y cứ vào những hình thức chùa tháp, lễ nghi, kinh điển – mặc dù kinh điển là kim chỉ nam hướng dẫn ta trên đường đi tới đạo quả vô thượng Bồ đề.

Nhưng sự tồn tại đích thực chính là sự thể hiện đạo phong, những nếp sống gương mẫu của các bậc tăng già nghiêm trì giới luật và biết tận lực phục vụ chính pháp để chính pháp mãi mãi tồn tại với con người, cuộc đời và làm lợi ích cho chúng sinh.” Và có lần Ngài gửi huấn dụ cho một đệ tử ở hải ngoại: “Vạn vật biến chuyển không ngừng, dục vọng con người khởi diệt thế nào con đã rõ.

Bên trong thì tâm niệm sát na vô thường, bên ngoài thì thanh sắc quyến rũ mãnh liệt, trong không chỗ nương, ngoài không chỗ tựa, bậc trượng phu giữa đời lại hiếm có, tự mình dễ cảm thấy lẻ loi. Nếu không phải là người nuôi chí xuất trần, quyết lánh vọng tìm chân, thì thật khó bảo toàn chí nguyện sơ tâm vậy.” Đối với những đồ đệ được diễm phúc sống gần gũi bên Ngài đều cảm nhận: Ngài là hiện thân của một Bài thuyết pháp hùng vĩ linh động qua đạo phong cốt cách, qua những lời giáo huấn vàng ngọc đề cao trí tuệ và đức tự chủ tự giác. Ngài luôn luôn khuyến khích sự học hỏi Phật pháp cũng như thế pháp, nhưng đồng thời Ngài vẫn thường khuyến cáo môn đệ đừng rơi vào cạm bẫy của trí thức suông. Trong việc tu trì, Ngài khuyên đệ tử hãy luôn luôn nhiếp tâm chánh niệm trong bốn uy nghi vào tất cả các thời và phải tự chủ đối với pháp môn tu tập, chớ để bị pháp biến chuyển.

Ngài khuyên môn đệ sau mỗi thời tụng kinh, lễ bái hay niệm Phật, nên tập ngồi thiền, để tâm an trú ở chỗ vắng lặng, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, đừng mãi bám víu vào 1 câu trì chú hay niệm Phật. Ngài thường khuyên dạy bằng một lời vắn tắt: “Gắng tự làm chủ lấy!”. Đối với những phật tử tại gia phải gánh vác nhiều bổn phận, Ngài khuyên một phương pháp giản dị: “Mỗi tối trước khi ngủ, hãy ngồi thẳng trên giường, chí thành tha thiết niệm thong thả 10 lần cầu hồng danh Nam mô A Di Đà Phật.

Trong những năm sau này, khi một số đông Tăng Ni còn sơ cơ phải ra làm công tác xã hội thực thi hạnh cứu khổ, Ngài không ngừng khuyên hãy thận trọng gìn giữ sơ tâm, nghiêm trì giới luật. Ngài nhấn mạnh phương châm “Tuỳ duyên bất biến” và khuyên đệ tử đừng bao giờ lợi dụng địa vị, tuổi trẻ, chức phận mà dễ dãi với bản thân và làm những chuyện phương hại đến đạo nghiệp. Trong những năm gần đây, khi tuổi đã già, sức đã kiệt, Ngài thường dạy đệ tử: “Trước, ta dạy các con bằng lời nói, có khi bằng roi gậy, nhưng nay thì ta dạy bằng sự im lặng.” Ai đã từng có duyên lành hầu cận Ngài, đều phải công nhận Ngài có một uy nghi hùng vĩ trong tất cả các thời. Mặc dù già yếu, Ngài luôn luôn ngồi thẳng người theo thế nhập định.

Dáng đi oai vệ như sư tử chúa. Đôi tay dài quá gối buông thẳng khoan thai mỗi khi Ngài đi bách bộ. Đôi mắt luôn luôn nhìn thẳng uy nghiêm. Và đặc biệt, Ngài rất ít khi ngồi ở chỗ không phải chỗ ngồi thường nhật của Ngài trong tự viện.

Thế nên, chỗ Ngài ngồi trong Tổ đình Tường Vân đã trở thành một nơi thiêng liêng đối với Phật tử miền Trung. Dù cho Ngài phải xa xứ Huế trong nhiều năm, nhưng suốt thời gian này, và có lẽ mãi mãi từ đây, Phật tử nào bước chân đến Tổ đình cũng vẫn tự nhiên cúi đầu cung kính khi đi ngang qua pháp toà của Ngài là bộ phản gỗ đơn sơ. Một làn hương không tên nhưng có thật, toả ra từ nơi thiêng liêng ấy, khiến mọi người phải cúi đầu uý phục, không dám bước mạnh nói lớn hay có những cử chỉ thiếu uy nghi hay ngay cả một tâm niệm bất chính.

Làn hương đó có lẽ là di tích vô hình, vô thanh, vô hương, nhưng linh động nhất của Ngài, đó là làn hương của Giới, Định, Tuệ, làn hương của hạnh kham nhẫn, của đức giải thoát vô vi. Trong những tháng Ngài ngoạ bệnh phải vào điều trị tại dưỡng đường Duy Tân và Sùng Chính, những lúc bệnh tình trầm trọng, đệ tử có thăm hỏi: “Bạch Cố, Cố có mệt lắm không?” thì Ngài trả lời: “Thân ta mệt, nhưng tâm ta thì không”.

Hạnh giải thoát vô vi của Ngài biểu lộ trong đức tính “Tuỳ duyên nhiếp hoá”. Ngài không bao giờ tham cầu đệ tử hay nghĩ đến việc mở mang ngôi Tổ đình cho lớn rộng. Hình thức, nghi lễ không phải là mối quan tâm chính yếu của Ngài. Nhưng có lẽ do định luật y báo, chính báo không rời nhau, nên Ngài đến đâu thì trang nghiêm y báo, đồ chúng sum vầy, đông đúc, mừng vui như con thơ gặp lại mẹ hiền, như nắng hạn gặp cơn mưa lớn.

Ngôi Tổ đình Tường Vân đã bao năm điêu tàn vì thời gian và chiến cuộc, nhưng Ngài không bao giờ cho phép đồ đệ quyên góp trùng tu, vì cảm thông tình trạng kinh tế eo hẹp của Phật giáo đồ hiện tại. Mãi đến gần đây, trong thời gian Ngài xa Huế, một số đệ tử thân tín mới khởi công tái thiết. Lễ khánh thành sắp tổ chức thì được tin Ngài tỏ ý mong trở về, và những căn rạp dựng lên cho cuộc khánh thành, than ôi, bây giờ lại được sử dụng cho tang lễ.

Những ngày cuối cùng.

Mãi cho đến ngày rằm tháng 11 năm Nhâm Tý, từ Sài Gòn (lúc bấy giờ Ngài an trú tại Tu viện Quảng Hương Già Lam, do Hoà thượng Thích Trí Thủ làm giám viện), Ngài quyết liệt bày tỏ ý muốn trở về Huế. Trong lúc Hội đồng Lưỡng Viện tới làm lễ tiễn đưa Ngài về Huế, Thượng toạ cố Viện tưởng Thích Thiện Hoa có bạch: “Xin cung thỉnh Đức Tăng Thống sau khi về thăm cố đô ít ngày, rồi xin Ngài trở lại thủ đô để lãnh đạo Giáo Hội.” Ngài nghiễm nhiên đáp: “Thôi, tôi không vô nữa”.

Sau khi trở về cố đô, Ngài lần lượt viếng thăm các Tổ đình Huế như Thuyền Tôn, Tây Thiên, Từ Đàm, Báo Quốc, Linh Quang, Quốc Ân, Kim Tiên v.v… và các Phật học viện cùng Ni viện. Không ngờ, lần viếng thăm này lại là lần vĩnh biệt cuối cùng!

Trong dịp đầu Xuân Quý Sửu, khi quý vị Thượng toạ Giáo hội Phật giáo Thừa Thiên đến Tổ đình Tường Vân đảnh lễ chúc thọ đầu năm, dường như linh cảm trước sự ra về vĩnh viễn, Ngài đã ân cần phú chúc những lời huấn dụ hết sức cảm động: “Tôi thấy sức khoẻ tôi đã kém nhiều, tôi khuyên các Tăng Ni Phật tử cố gắng lo việc tu hành để báo đáp công ơn Tam Bảo, thương mến mà đoàn kết với nhau để xây dựng Giáo hội và góp phần vào nền hoà bình dân tộc.” Ngài khuyên nhủ Tăng Ni cố gắng nghiêm trì giới luật để giữ gìn mối đạo và đừng bỏ rơi chúng sinh thời mạt pháp.

Chỉ sau vài ngày pháp thể khiếm an, Ngài an tường xả báo thân vào lúc 20 giờ 45 phút ngày 23 tháng giêng năm Quý Sửu (nhằm 25-12-1973).

Ngài trụ thế 83 năm, Hạ lạp 62.

Tháp Ngài do môn đồ phụng lập tại khuôn viên Tổ đình Tường Vân.

 

 
ĐIẾU VĂN Của Hội đồng Lưỡng Viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (Đọc trong lễ tưởng niệm Đại lão Hoà thượng Tăng Thống trước khi nhập Tháp).

… Mới đây trong dịp đầu xuân, tin ngừng bắn chấm dứt tương tàn vừa phổ biến, chúng đồ khắp nơi chốn hăm hở hướng về đảnh lễ chúc thọ đầu năm, tưởng là góp vui cùng Hoà thượng trong chuỗi ngày xế bóng.

Nào ngờ chẳng được ba tuần, hoa mai chưa kịp rụng cánh, tiếng súng chưa kịp lặng yên, lòng chục triệu tín đồ khắp nước ngẩn ngơ đau xót, nghe tin Hoà thượng đã vội vã lìa trần cao đăng Phật quốc.

Vẫn biết, sinh là ký tử là quy, biển trầm luân vốn sắc không chuyển hoá, thế nhưng nay cảnh sắc Tổ đình còn đó, sự nghiệp hoằng pháp của Giáo hội đương độ dở dang, Hoà thượng đã vội ra đi lòng chúng con ngậm ngùi thương tiếc!

Hoà thượng đã vĩnh viễn giã từ đồ chúng, giã từ đất nước Việt Nam thân yêu mà cho đến phút lâm chung Hoà thượng vẫn còn trìu mến!

Một bước ra đi để lại muôn triệu niềm thương tiếc, trong lẽ tịch diệt hôm nay đã trở thành điều bất diệt.

Suốt một phần tư thế kỷ trên con đường đạo hạnh, Hoà thượng đã không từ tuổi già sức kiệt, rời bỏ chốn thuyền lâm thanh tịnh để hướng dẫn chúng con trên đường phục vụ quê hương, Đạo pháp.

Hơn 83 năm cuộc sống kéo dài, non thế kỷ Hoà thượng đã cùng với Giáo hội, non sông gắn liền trong những bước gian nguy thống khổ! Hoà thượng đã vui cái vui của mọi người, Hoà thượng đã khổ cái khổ của non sông Đạo pháp.

Trên con đường phục vụ vừa nặng nề vừa gian khổ, chúng con đã gượng lại sau nhiều phen ngã gục khi nhìn lại sự hy sinh tận tuỵ của Hoà thượng cho chúng con, cho Giáo hội, cho non sông đất nước. Chúng con quên sao được những hình ảnh tuy trầm tư song cương nghị mà Hoà thượng đã nêu gương cùng đồ chúng trong phong trào chống lại bạo quyền bảo vệ tín đồ, tín ngưỡng.

Chúng con quên sao được khi tấm thân gầy yếu của Hoà thượng đã đầy thương tích trong đêm pháp nạn 20-8-1963. Trong hơn một thế hệ, cuộc sống của Hoà thượng là cuộc sống của Đạo pháp, nỗi vui buồn của Hoà thượng là nỗi vui buồn của thế nhân, trong chuỗi thời gian dằng dặc cả dân tộc chịu đựng quá nhiều thống khổ đắng cay cho nên Hoà thượng những mong cho quốc gia thái bình và chúng sinh an lạc. Niềm ước mong đó Hoà thượng đã thể hiện trọn vẹn trong khổ hạnh tu trì, cầu mong tế độ. Không một phút lãng xao, không một ngày ngơi nghỉ, hạnh nghiệp của Hoà thượng chiếu sáng như ngọn hải đăng, từ muôn nẻo xa xăm tín đồ vọng về chiêm ngưỡng. Nay Hoà thượng đã cao đăng Phật quốc mà ánh sáng đạo hạnh vẫn đời đời tỏ rạng. Công đức của Hoà thượng thực như:

Ánh rạng trời Nam, muôn thuở người gương Quốc Tổ.
Mây doanh cõi tịnh, nghìn thu toả bóng Cao tôn.

Hoà thượng đã cao đăng Phật quốc, những lời nhắn nhủ của Hoà thượng trước khi lìa trần như văng vẳng bên tai chúng con:

“Các Thầy hãy thực hiện lục hoà, Tăng đồ phải trau dồi phẩm hạnh. Quần chúng Phật tử nên đoàn kết thương yêu nhau để giữ vững đạo tâm và gắn lo cho Hoà bình đất nước.”
Ngưỡng bạch Giác linh Hoà thượng! cuốn rún không thể lìa đôi, cành cây không sao có hai cội cho nên lịch sử Việt Nam chỉ có một, thì Phật giáo Việt Nam không thể tách làm hai, bởi từ ngàn xưa như một dòng suối tâm linh tưới mát cho đồng cỏ dân tộc, dân tộc Việt Nam đang cần có một dòng suối tươi mát trong hiển vinh của Hoà thượng để lại trong hào quang của chư Phật, chư Bồ-tát, chư Thánh tử đạo Việt Nam. Chúng con nguyện sẽ làm những đứa con đi tìm lại những anh em lạc lối lầm đường để cùng nhau tu học, chúng con quyết tâm hàn gắn lại những đổ vỡ đau thương, hoá giải hận thù cho quê hương bớt tang tóc và đồng bào sống trong an lạc. Chúng con lắng nghe những lời vàng của Phật đã dạy bảo đệ tử Ananda:

“Ta phải có thái độ của đàn voi lâm trận, mạnh tiến giữa rừng gươm dao, giáo mác bình tĩnh hứng lấy những nỗi chua cay của đời và thản nhiên vững bước trên đường phẩm hạnh!”

… Hôm nay Hoà thượng không còn nữa, Hoà thượng đã ra đi giữa lúc quê hương đang tràn đầy đau khổ, Đạo pháp đang gặp lúc ngửa nghiêng. Chúng con mất đi một vị minh sư, Giáo hội mất đi gương lãnh đạo, chúng đồ đạo Phật tử vắng bóng một bậc cha già đạo hạnh.
Vẫn biết:

“Sắc tướng vốn không, nương huyền cảnh độ người mê muội.
Tử sanh nào có, mượn thuyền từ vớt kẻ trầm luân.”

Đành rằng: Sanh ký tử quy, lẽ vô thường ai dễ khỏi, song chúng con không khỏi ngậm ngùi thương tiếc khi hình bóng từ hoà của Hoà thượng từ nay vĩnh biệt.

Hôm nay chúng con Hội Đồng Lưỡng Viện thay mặt hàng triệu Tăng Ni Phật tử khắp trong nước thành kính đốt nén hương thành tiễn đưa Hoà thượng lên vân lộ xa xôi, cầu nguyện Hoà thượng cao đăng Phật quốc, hồi nhập Ta bà để hướng dẫn chúng con trên đường đạo hạnh.

Kính mong Hoà thượng thuỳ từ chứng giám.

ĐIẾU VĂN của Ni bộ Bắc Tông ([1])

Ngưỡng bạch… …

Hôm nay, chúng con Đại diện Ban Chấp hành Ni bộ Bắc tông, kính cẩn bái lễ trước Kim quan Cố Hoà thượng để tỏ lòng kính ngưỡng bậc thạnh đức siêu trần đã sớm lìa Giáo hội vào cõi Niết Bàn.

Hỡi ôi!

Sóng khổ hải lao xao
Trời Chơn như tịch mịch.

Bực đống lương một phút xa lìa,
Ngôi Long tượng nghìn thu cách biệt.

Nhớ Giác linh xưa!

Tánh đức trang nghiêm,
Tinh thần cao khiết.

– Đạo hạnh thấm ưa từ trẻ, linh tâm rực rỡ tuổi già;
Thiền quan hôm sớm chuyên tu, Giới đức tháng năm mài miệt.

– Quyết trau dồi kinh kệ, bén mùi thiền tâm thể ôn nhu;
Mong rèn luyện tánh tình, thấm hương vị linh nguyên nhã khiết.

– Phản vọng sớm tầm câu yếu lý,
Qui chơn thêm thấu lẽ huyền vi.

– Bội trần đà rõ tánh Siêu kỳ,
Hiệp giác sẵn nêu tâm cao việt.

– Trọn cuộc đời, thanh tịnh chơn tu,
Suốt một kiếp, siêu trần tinh khiết;

– Đã hiến thân cho đạo, sá chi phần lao nhọc, đem tuổi già, nêu gương cả, đề huề lui tới khắp Nam Trung;
Nguyện lập chí vì đời, ngại đâu lẽ gian nguy, noi hạnh lớn, sánh người xưa, hoằng hoá mở mang cùng Quốc Việt.

– Khi Xá Lợi từng phen Trụ tích, thương sanh linh đồ chúng lắm trung trinh;
Khi Ấn Quang đà bao thuở lưu hình, vì Đại sự thắng duyên thêm thắm thiết.

– Thuyền lục độ thung dung,
 Pháp nhứt thừa thấu triệt.

– Những tưởng, bánh xe cửu trụ, vạn kiếp vần xoay,
Nào ngờ, cơn lốc vô thường, một thân tạm biệt.

Ôi!

– Giấc mộng tỉnh say,
 Đời trần hư thiệt.

– Trăm năm cuộc thế, nào khác đêm dài,
Một phút siêu linh, còn đâu bóng chiết.

– Đó đây hiu quạnh, chốn rừng thiền tịch mịch bóng hình hài huyễn ảnh lắng xa;
Sau trước êm đềm, nơi lan nhã vắng không; tiếng pháp nhủ, thanh âm cách tuyệt;

– Đau xót nỗi! Bơ ngơ chiều vắng lạnh, nào thiền sàn, đâu nữa bậc cao minh!
Ngẩn ngơ thay! Thâm thẩm tấm u hoài, kìa bửu tháp, nêu cao gương thanh khiết.

– Vuông tròn một niệm, ngàn kiếp thảnh thơi;
Trong lặng suốt đời, muôn duyên tuyệt diệt.

– Niết Bàn dành sẵn bực cao kiên,
Lạc Quốc sớm chờ trang Thánh triết.

Ôi Thôi!

– Huyễn ảnh xa rồi,
Chơn thân há diệt.

– Mây từ vần vũ, mưa pháp dầm dề,
Trăng tánh rạng ngời, trời tâm thấu triệt.

– Trà thơm một chén, lễ bạc kính dâng, văn điếu đôi câu, hết lòng thành kính.
Ngưỡng cầu Giác linh, thượng phẩm cao đăng, Kính nguyện tôn Sư, Liên Trì tịch diệt.

– Đảnh lễ cao tôn
Phục duy giám cách
Hiếu đồ Ni giới “Ni Bộ Bắc Tông”

Đồng Kính Bái.

Bài Tưởng niệm của Hoà thượng Quy Thiện trứ tác một bài châm thay cho Chư Tăng ở cố đô Huế tán thán công đức Ngài và Hoà thượng Tịnh Hạnh (anh Ngài) ví như Vô Trước và Thế Thân của thời mạt pháp.

Hương giang chi nguyệt
Ngự lĩnh chi vân
Sơn xuyên dục tú 
Đĩnh xuất Kỳ nhân
Giác trần thị huyễn       
Duy đạo vi trân
Nghi huynh nghi đệ       
Vô Trước Thiên Thân
Chấn khởi thuyền phong         
Chiết phục tà thái
Hoả mãn diêm phù       
Kỳ huynh nan tái
Vân án trường thiên      
Ba cuồng đại hải
Huệ chúc từ phàm
Duy sư thị lại.
Vi giáo hội chủ    
Vi chúng trung tôn
Giáo lưu nam độ 
Thục dự tỉ luân.
Pháp hoằng gia vụ       
Đạo kế tông môn
Nghi đoan biểu chính    
Mục kích đạo tồn.
Bổng xướng tuỳ nghi     
Nhân hàm kính ngưỡng
Thanh tịnh nan danh    
Ứng dụng vô lượng
Phật pháp đống lương  
Tông môn bảo chướng
Tuyển Phật tràng trung 
Lễ tôn Hoà thượng
Xuân thành hậu tấn      
Cửu phụ đức âm
Vô nhĩ biểu thành
Kiền bị chuyết châm.
Nguyệt thuỳ liên nhãn   
Phủ giám quy thâm
Vĩnh phụng trần sát      
Tương thử thâm tâm.

Tạm dịch:

Trăng sông Hương, mây núi Ngự, tinh anh sông núi khéo đúc nên bậc khác thường. Giác ngộ trần lao như huyễn, chỉ Đạo là quí. Xứng huynh xứng đệ như Vô Trước, Thiên Thân. Chấn hưng thiền phong, chiết phục tà thái. Hoá độ cõi Ta bà đã xong, thì anh Ngài về chầu Phật. Than ôi! Mây phủ ngất trời, sóng gầm biển lớn. Đuốc tuệ thuyền từ chỉ còn Ngài làm chỗ cậy nương. Làm pháp chủ Giáo hội, làm bậc chúng trung tôn. Giáo pháp lưu truyền đất Nam, mấy ai sánh kịp. Xem việc hoằng pháp là việc nhà, nối tiếp đạo thống tông môn. Hình nghi đoan chánh, mắt trừng ánh đạo, đánh hét tuỳ cơ nghi. Người người kính ngưỡng. Thanh tịnh khó bàn, ứng dụng vô lượng, đống lương của Phật pháp, bình phong che chở tông môn. Trong trường tuyển Phật, suy tôn Hoà thượng. Kẻ hậu lai ở cố đô từ lâu nương nhờ âm đức, không biết lấy gì bày tỏ lòng thành, xin cung soạn bài châm vụng về này, ngưỡng mong Ngài hạ cố chứng giám lòng tinh thành, nguyện đem thâm tâm này vĩnh viễn phụng sự chúng sinh.

Ngoài ra, cụ Phan Bội Châu lúc sinh tiền là bạn tâm giao với Ngài có hoạ bài thơ tặng ngài như sau:

Bài vịnh Hoa Ngọc lan của Phan Sào Nam

Nguyên văn chữ Hán:

前身種出自蓬莱
唯向菩提院裏栽
素蕊光争冬夜雪
奇芳品奪領頭梅
真香王者天垂賞
荘此嫦娥月暗猜
唯佛從来能識佛
慇勤惠我此花魁

Phiên âm:  

Tiền thân chủng xuất tự bồng lai,
Duy hướng bồ-đề viện lý tài.
Tố nhuỵ quang tranh đông dạ tuyết,
Kỳ phương phẩm đoạt lãnh đầu mai.
Chân hương vương giả thiên thuỳ thưởng,
Trang thử thường nga nguyệt ám sai.        
Duy Phật tùng lai năng thử Phật,
Ân cần huệ ngã thử hoa khôi.

Nguyên Hồng dịch:

Giống tự Bồng lai đến cõi này,
Bồ-đề viện nội trỗ nên cây.
Sắc màu rực rỡ đêm đông tuyết,
Hương toả đầu non tựa lão mai.
Vương giả chân hương trời bủa xuống,
Hằng nga cốt cách nguyệt nhường ngôi.
Chỉ Phật mới hay thân Phật Tổ,
Ân cần trao gửi nhánh hoa tươi.
 

 

([1])    Do Thượng toạ Thiện Trí đọc trước kim quan cố Đại lão Hoà thượng đương kim Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, ngày 06.3.1973

Hòa thượng Thích Quang Nhuận dâng hương cầu nguyện và cử hành Lễ Tưởng niệm