Tiểu sử Hòa thượng Thích Mãn Giác
Sa môn Thích Mãn Giác sinh năm Kỷ Tỵ, 1929 tại Cố đô Huế, trong một gia đình mà Nội Ngoại đều tin Phật và nhiều nguời trong thân quyến đã có duyên xuất gia và nổi tiếng thân danh trên đường tác thành Phật sự. Cố đô Huế chỉ là sinh quán, còn nguyên quán thuộc làng Phương Lang, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị
Sau khi học xong chương trình Tiểu Học Yếu Lược và được lên Lớp Nhì Nhứt Niên, tuổi đời mới lên 10, HT Thích Trí Thủ – nguyên là đệ nhất Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam là người anh cô cậu ruột đã có duyên xuất gia từ trước, đã hướng dẫn người em gửi gắm đến với HT Thích Quảng Huệ, Trú trì chùa Thiên Minh Huế cho nhập đạo tu hành.
Năm 16 tuổi, nhằm quý niên Giáp Thân, 1944, Ngài được Thế độ thọ giới Sa Di, pháp danh Nguyên Cao, tự Thích Mãn Giác, đạo hiệu Huyền Không tại Chùa Thiên Minh và sau đó được thọ giới chính thức tại Giới Đàn Thuyền Tôn do Đại Lão HT Thích Giác Nhiên làm Đường Đầu Hòa Thượng, HT Thích Tịnh Khiết làm Yết Ma.
Năm Kỷ Sửu, 1948, cùng với học tăng cùng học chương trình Đại Học Phật Giáo tại Phật Học Đường Báo Quốc được tiếp nhận giới bổn Tỳ Kheo trong Đại Giới Đàn do Đại Lão HT Thích Tịnh Khiết làm Đường Đầu, Đại Lão HT Thích Giác Nhiên làm Yết Ma, HT Thích Vĩnh Thừa (Châu lâm) làm Giáo Thọ. Giới đàn này quy tụ các học chúng ưu tú mà sau này trở thành các nhân sự lãnh đạo Phật giáo tăm tiếng như HT Thích Thiện Siêu, sau này là Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Năm 1950, Canh Dần, sau lễ Chung Thất của Ngài Bổn Sư vừa viên tịch, Đại lão HT Thích Giác Nguyên, Trưởng Pháp Phái, đã chiếu tập Chư Sơn Giáo Hội Huế, HT Thích Quảng Nhuận, Trú Trì Tổ Đình Từ Quang, huynh đệ trong cùng môn phái Thiên Minh như Thích Châu Phong (Nguyễn Phương Danh), Thích Châu Ninh, Thích Châu Sơn, Thích Châu Đức, Thích Nữ Diệu Âm… hội họp và truy cử Ngài giữ chức vụ Trú Trì Chùa Thiên Minh để tiếp tục nối dòng Pháp Phái.
Từ năm 1954, Sơn Môn Huế và Hội Phật Học Trung Phần công cử Sa Môn đến làm giảng sư tại Dalat, vài năm sau kiêm nhiệm chức vụ Hội Trưởng Hội Phật Giáo Dalat, Đại Diện Hội Phật Giáo Cao Nguyên Trung Phần. Đây là những năm tháng gắn bó với Phật sự, dấu chân hoằng pháp in đậm trên mọi miền và đem lại rất nhiều an ủi cho quần chúng tin Phật đang bị thử thách nguy cơ đàn áp và lôi cuốn đổi đạo của chính quyền.
Năm 1960, được đi du học Nhật Bản, được tiếp xúc miền đất Thiền học hưng thịnh và được thở hương Đạo mặn mà ủ kín nơi những bài thơ Hài Cú tài hoa và dưới những cánh hoa anh đào rực rỡ.
Cuối năm 1965, sau khi tốt nghiệp Tiến Sĩ, Ngài được chính thức mời về giảng dạy tại ĐH Văn Khoa Sài Gòn và Huế qua bộ môn Triết Học Ấn Độ và Trung Hoa. Đây cũng là thời gian mà Sa Môn Mãn Giác thực sự dấn thân vào các hoạt động văn hóa, giáo dục, nhằm giải tỏa và vô hiệu hóa những xuyên tạc ngộ nhận đối xử bất công đối với văn học và Phật giáo nói chung
Cũng trong năm này, 1965, Sa Môn Mãn Giác bắt đầu cộng tác chặt chẽ với Viện Đại Học Vạn Hạnh do HT Thích Minh Châu (nay là Phó chủ tịch thường trực HĐTS Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh) làm Viện trưởng, Ngài đóng vai trò Khoa trưởng Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương. Và trong vài năm sau đó, giữ trong nhiệm Phó Viện Trưởng Điều Hành Viện Đại Học Vạn hạnh cho tới ngày giải phóng Miền Nam và thống nhất đất nước.
Từ năm 1977, Sa Môn Mãn Giác chính thức định cư tại Hoa Kỳ, Viện Chủ Chùa Việt Nam Los Angeles và là Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, một tập hợp gồm nhiều Chùa, Hội Phật Giáo Việt Nam trải khắp đất nước Hoa Kỳ. Trong cương vị Hội Chủ, với hơn 25 năm hành đạo trên đất mới, tâm niệm và hành tác như trọn đời vẫn là hướng về chăm lo cho chùa Tổ ở quê nhà, tiếp dẫn hậu lai nơi hải ngoại. Với cái nhìn từ bi và trí tuệ của nhà Phật, Hòa thượng cũng không tham gia vào những hoạt động mượn đạo tạo đời, mang màu sắc chính trị của một bộ phận người Việt chống Cộng mang danh Tăng Ni, Phật tử ở hải ngoại. Những việc cần làm sẽ và đã làm xong, cuối đời, lòng bình an như thảnh thơi mây trắng.
Sa Môn Mãn Giác, qua đạo hiệu Huyền Không là một hồn thơ Đạo. Tiếng thơ rộn rã trong hơn một ngàn bài gói trọn tâm hồn và gương mặt tác giả thu được gồm 5 tập:
– Không bến hạn
– Hương Trần Gian
– Không Gian Thành Chiếc Áo
– Kẻ Lữ Hành Cô Độc
– Mây Trắng Thong Dong
Ngoài ra, về phương diện trước tác, sáng tác, phiên dịch, biên soạn… Sa Môn Mãn Giác còn để lại trên 20 cuốn sách giá trị cho nhiều đối tượng người đọc khác nhau. Đi vào khu rừng nhận thức trù phú ấy, người ta có thể tha hồ gặt hái những nụ đẹp cành mềm, những hương và những sắc nồng nàn mà lý tưởng một đời của người mài miệt trồng rừng là chỉ làm đẹp đời sống văn hóa, làm đẹp tâm hồn con người.
Ngài thường trú tại Chùa Việt Nam Los Angeles. Thỉnh thoảng, còn làm thơ, viết văn, dịch sách… như là một dáng đẹp những ngày cuối đời.
Vào đầu tháng 8 năm 2006, Hòa Thượng cảm thấy pháp thể khiếm an, mặc dù được các hàng đệ tử, các y, bác sĩ tận tình chăm sóc chữa trị, nhưng vì tuổi cao sức yếu, Ngài đã không qua khỏi. Ngài đã an tường xả báo thân lúc 8 giờ 25 sáng giờ Cali, ngày thứ sáu, 13-10-2006, nhằm ngày 22-8- Bính Tuất, trụ thế 78 tuổi đời, 65 pháp lạp.
Suốt cuộc đời, từ khi xuất gia hành đạo cho đến lúc viên tịch, Hòa Thượng Thích Mãn Giác đã nỗ lực không ngừng trong công việc xiển dương đạo pháp và văn hóa dân tộc. Cuộc đời Ngài là một tấm gương sáng ngời về đạo hạnh và sự nghiệp hoằng hóa cho Tăng ni và Phật tử noi theo. Mặc dù sắc thân của Ngài không còn nữa nhưng đạo hạnh và sự nghiệp hoằng hóa của Ngài sẽ mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho Tăng Ni Phật tử Việt
Phân ưu Được tin Hòa thượng Thích Mãn Giác, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ vừa viên tịch tại Hoa Kỳ, trụ thế 78 năm. Ban Biên tập và Ban Trị sự Trang thông Tin điện tử Phật tử Việt Nam, Ban Quản trị Diễn đàn Phật tử Việt Nam, Câu lạc bộ Thanh Niên Phật tử Việt Nam vô cùng kính tiếc và thành kính phân ưu cùng Môn đồ, Pháp quyến. Kính nguyện Giác linh Hòa thượng cao đăng Phật quốc, tái nhập Sa bà độ sinh vô lượng. |
CHƯƠNG TRÌNH TANG LỄ
Cố Ðại Lão Hòa Thượng
T H Í C H M Ã N G I Á C
Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt
Viện Chủ Chùa Phật Giáo Việt
Chủ Nhật, ngày 15 tháng 10 năm 2006 (24 tháng 8 năm Bính Tuất):
– 10 giờ: Cung thỉnh nhục thân Hòa Thượng về bổn tự
– 11 giờ: Lễ Nhập Kim Quan
– 12 giờ: Lễ Bạch Phật Khai Kinh, Cúng Ngọ
– 12 giờ 30: Lễ Thỉnh Giác Linh An Vị:
Dâng hương,
Dâng hoa,
Dâng trà,
Lễ thọ tang
– 14 giờ ~ 21 giờ: Lễ viếng và tụng niệm
Thứ Hai, 16 tháng 10 năm 2006 (25 tháng 8 năm Bính Tuất):
– 6 giờ: Lễ Tiến Trà
– 8 giờ: Lễ viếng và tụng niệm
– 11 giờ 00: Cúng ngọ và cung tiến giác linh
– 13 giờ ~ 21 giờ: Lễ viếng và tụng niệm
Thứ Ba, 17 tháng 10 năm 2006 (26 tháng 8 năm Bính Tuất):
– 6 giờ: Lễ Tiến Trà
– 8 giờ: Lễ viếng và tụng niệm
– 11 giờ 00: Cúng ngọ và cung tiến giác linh
– 13 giờ ~ 21 giờ: Lễ viếng và tụng niệm
Thứ Tư, 18 tháng 10 năm 2006 (27 tháng 8 năm Bính Tuất):
– 6 giờ: Lễ Tiến Trà
– 8 giờ: Lễ viếng và tụng niệm
– 11 giờ 00: Cúng ngọ và cung tiến giác linh
– 13 giờ ~ 21 giờ: Lễ viếng và tụng niệm
Thứ Năm, 19 tháng 10 năm 2006 (28 tháng 8 năm Bính Tuất):
– 6 giờ: Lễ Tiến Trà
– 8 giờ: Lễ viếng và tụng niệm
– 11 giờ 00: Cúng ngọ và cung tiến giác linh
– 13 giờ ~ 21 giờ: Lễ viếng và tụng niệm
Thứ Sáu, 20 tháng 10 năm 2006 (29 tháng 8 năm Bính Tuất):
– 6 giờ: Lễ Tiến Trà
– 9 giờ: Lễ thỉnh Giác Linh yết Phật
– 10 giờ 00: Cúng ngọ và cung tiến giác linh
– 11 giờ 30: Lễ truy niệm công đức cố Đại Lão Hòa Thượng Hội Chủ, cúng dường Trai Tăng và Lễ Cung An Chức Sự cho Lễ Cung Tống Kim Quan
– 13 giờ: Lễ viếng và tụng niệm
– 17 giờ: Lễ Thỉnh Giác Linh Yết Tổ, nhiễu Kim Quan
– 20 giờ: Lễ Tịch Điện
Thứ Bảy, 21 tháng 10 năm 2006 (30 tháng 8 năm Bính Tuất):
– 6 giờ: Lễ Tiến Trà
– 9 giờ: Lễ Tưởng Niệm (có chương trình riêng)
– 11 giờ: Lễ Cung Tống Kim Quan
– 12 giờ 30: Lễ Trà Tỳ (có chương trình riêng)
– 14 giờ: Lễ cung thỉnh Giác Linh an vị
– 15 giờ: Tạ Phật-hoàn mãn