Trang chủ Nghiên cứu Thiền học Hoà bình theo quan điểm của Kim Cang Thừa, phần 2

Hoà bình theo quan điểm của Kim Cang Thừa, phần 2

375

Phương Cách Thiện Xảo Của Tĩnh Thức

Có nhiều môn phái triết lý, phương cách tu tập và biểu hiện văn hoá khác nhau, đó là đặc điểm chung của Phật giáo Đại thừa. Có những cách diễn giảng khác nhau về giáo lý cơ bản, cũng là đặc điểm chung. Về mặt phương pháp, học giả Mật Tông phân loại việc tu tập theo Đại thừa vào loại Ba la Mật, (được biết như là Khế Kinh) và Chân Ngôn Thừa (được biết như là Mật Tông hay Kim Cang Thừa). Khái niệm của Đại thừa là Như Lai Tạng (Phật Tánh), tiềm năng của sự giác ngộ  luôn có sẳn trong tất cả chúng sinh. 

Trước khi theo đuổi việc tu tập theo pháp môn Mật tông, hành giả cần có hiểu biết vững chắc về cơ bản giáo lý Phật giáo. Hành giả tôi luyện hằng ngày theo ba cách: thái độ đạo đức, tập trung thiền định và trí huệ. Hơn nữa, hành giả cần tuân thủ sáu đức tính để đạt đến sự hoàn hảo (theo tinh thần đáo bỉ ngạn) là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ.

Điểm thứ ba trong sáu đức tính này là nhẫn nhục được xem như là một liều thuốc hóa giải sân hận. Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV biểu lộ việc tu tập lòng kiên nhẫn của Bồ Tát như người mẹ khi bị trẻ sơ sinh đánh vào người, kéo tóc đưa tay vào mắt của bà. Cũng tương tự như vậy, Bồ Tát muốn có nhiều thời gian để đạt đến việc hoán cải sinh linh.

Hơn nữa, hành giả cần hoàn tất chương trình tu tập nhập môn (ngondro), lập laị 100.000 nghi thức cúng lạy, thần chú 100 âm của Kinh Kim Cang và thiền định theo giới đàn (mandala). Cách thực tập thiền định theo sư phụ khác nhau đáng kể, tùy thuộc vào cách chỉ dẫn của sư phụ. Mỗi lời giáo huấn của sư phự về quán tưởng hướng về trọng tâm của một dòng truyền thừa để giúp tìm ra một đối tượng cho viêc quy y. Thông qua phép quán đảnh, hành giả thấy có sự hiện tiền cũa đấng giác ngộ như là cội nguồn của giáo lý và ân huệ.   

Sau khi hoàn tất khoá tu khởi đầu chuẩn bị, hành giả sẽ nhận được phép quán đảnh Mật tông của sư phụ. Phép này bắt chước theo giới đàn của một người đã đạt đạo, được coi như là một vị hoá thần trong quán tưởng, hoặc là Đức Phật hoặc là Bồ Tát, nam hoặc nữ, thể hiện trong qua vai thần Hộ Pháp: thiện thần hay ác thần. Nghi lễ kéo theo việc nhận bốn phép quán đảnh: hình thức bình, mật truyền, trí thức và ngôn từ.

Mục tiêu của hành trì là đạt đến tính không như điểm tối hậu cho tất cả mọi khía cạnh tu tập mà hành giả và chúng sinh là những người trực tiếp hưởng thành quả của tu tập. Thiền định nương theo chư thiên làm đối tượng của quán tưởng và  giới đàn chính là nơi an trú tịnh độ tuyệt vời của chư thiên mà cũng được xem như là đặc điểm của tính không.

Cùng lúc với việc đạt đến giác ngộ, hành giả sẽ có hai hình thái của Đức Phật: sắc thân và pháp thân. Pháp thân có thể hiểu theo hai khía cạnh: đặc điểm toàn năng của giác ngộ và đặc điểm tính không của giác ngộ. Sắc thân có thể được hiểu theo hai khiá cạnh: hoan hỷ và lan toả. Đạt được pháp thân qua tu tập thiền định hành giả trao giồi trí huệ hoặc nhận thức hướng về tính không. Đạt được sắc thân, hành giả trao giồi những phương thúc thiện xảo như là phương pháp.

Tôi luyện trí huệ đạt kết quả hoàn mãn với nhận thức về pháp thân Đức Phật, trong khi trao giồi phương pháp thiện xảo đưa tới rèn luyện thể xác theo sắc thân Đức Phật. Về bản chất, nguyên nhân và hậu quả giống nhau. Điều này có nghiã là tích lũy trí huệ tạo nên chân lý, trong khi tích lũy phương cách thiện xảo giúp thể hiện sắc thân. Thiền định về tính không là chủ yếu, nhưng chỉ thiền về tính không không đủ để đạt đến giác ngộ. Thiền định về tính không cần kết hợp với lòng vị tha và phưong tiện thiện xảo để làm giảm đi lòng khổ đau và mang lại hạnh phúc cho chúng sinh.

Hành Trì Theo Phật Để Trao Giồi An Lạc

Pháp môn Mật tông dùng quán tưởng là một phương tiện chuyển hoá, nhờ đó mà thay đổỉ những ô trược thường tục của tinh thần như giận dữ và ham muốn để hướng về con đường giác ngộ. Cũng giống như những truyền thống tâm linh khác, việc tu tập bao gồm nhiều yếu tố kinh nghiệm về quán tưởng, nhưng trong trường hợp Mật tông thì khả năng kiểm soát quán tưởng là chính. Trọng tâm của tu tập được gọi là du già theo chư thiên, nghịã là tự quán tưởng hướng về một  đấng đã giác ngộ và muốn là mình sẽ trở thành đấng này. Dù có một số đấng giác ngộ tương tự như trong pháp môn Mật tông của Ấn độ giáo, nhưng các đấng này không được xem như là những vị thánh thông thường, mà là một khuôn mẫu cho việc đạt giác ngộ của riêng mình. Nói một các khác, bằng cách quán tưởng và đồng hoá mình với bậc tuệ giác, hành giả sẽ hấp thụ những đức tính này và tự biến mình sẽ trở thành người giác ngộ viên mãn.  

Nhận chân bản sắc của chư thiên để đạt đến giác ngộ là trọng tâm của việc tu tập theo Kim Cang Thừa. Đào luyện pháp thân giác ngộ theo Đức Phật thông qua nhiều cách hành trì, kể cả việc tu tập theo du già của chư thiên sẽ đạt đến sắc thân với 32 điểm chính và 80 điểm phụ cùng lúc với đạt đến mức độ giác ngộ viên mãn. Hành trì theo pháp môn Mật tông bao gồm việc thiền định quán tưởng hướng về chư thiên, kết hợp tâm, thân và ý của chính mình với tâm, thân và ý của đấng giác ngộ mà mình quán tưởng. Mọi hình thức này được cảm nhận như hình thức đã đạt đạo của chư thiên, mọi âm thanh được cảm nhận như là âm thanh của chư thiên và mọi sinh hoạt tâm linh được cảm nhận như là trí huệ của chư thiên. 

Trong việc tu tập theo du già chư thiên, hành giả khởi động một sự hãnh diện như thần thánh của việc hoá thân qua thiền định. Việc hoá thân này đuợc nói tới như là thăng tiến để đạt được Như Lai tánh. Chính vì thế mà tu theo Mật tông được coi như là một con đường tắt. Trong khi con đường này mở ra một tuyến đường nhanh để đạt đến mục tiêu tối hậu thì nó có cả những trách nhiệm và nguy hiểm. Chính vì thế mà còn gọi là con đường hiểm nghèo. Những hoạt động của chư thiên theo Mật tông bao gồm có việc tạo an hoà, thăng hoa, tăng nghị lực và hủy diệt.

Biểu hiện về quan hệ tình dục giữa hai người nam nữ đã đạt đạo có giá trị tượng trưng cho việc phối hợp giữa trí huệ và từ bi, một điều kiện đòi hỏi cho việc trở thành Phật. Hành trì theo Kim Cang Thừa khởi đầu bằng cách nhận phép quán đảnh từ một vị su phụ là lama, rồi chuyển hóa khả năng từ việc tập trung quán tưởng vào một chủ điểm duy nhất trong nhiều hình ảnh khác của Đức Phật và các Bồ Tát. Đối với hầu hết các hành giả, kể cả các tăng sĩ trong tu viện, hành trì theo Kim Cang Thừa được thành tựu qua quán tưởng, chỉ có các bậc du già có trình độ cao cấp mới được phép tu tập với người bạn đường của minh.

Nếu thiền định hướng về chư thiên thể hiện qua việc quan hệ thân xác, hành giả khởi động một cách có ý thức về các mức độ ham muốn thể xác để tìm hiểu về bản chất đích thực của ham muốn. Trong pháp môn Mật tông, khi thực tập với người bạn đường của mình thì khác với việc tu bằng cách quán tưởng, đây là một cơ hội đặc biệt cho bậc hành giả có trình độ cao, với điều kiện là người này không bị ràng buộc bởi quy luật của tu viện và đạt được những điều kiện đề ra như là từ bỏ tuyệt đối, thái độ giác ngộ qua hành vi vị tha và trực diện tánh không. Tín đồ của truyền thống Phật giáo Tây Tạng, kể cả tông phái Cách Lỗ (Gelugpa), coi việc thực hành trung thực tình dục của du già là có đạo hạnh, khi những điều kiện vừa kể đạt được. Hành giả theo quy luật tu viện với cách quán tưởng hơn là thực tập với người bạn đời của mình.   

Theo Kim Cang Thừa, quán tưởng thường dùng để thay đổi khái niệm và cùng lúc là những phương hướng mà chúng ta thích nghi được thế gian. Những vị thần Hộ Pháp thường được xem như đối tượng để tập trung trong tụng mật chú, vì các vị này – Đức Phật và các Bồ Tát – là một khuôn mẫu của giác ngộ, và nhờ đó chúng ta ngộ ra rằng hiện hữu thật sự là tính không, và về bản chất thì thân xác của một người thường cũng là hư không. Những vị thần hoá thân hay những khuôn mẫu điển hình của giác ngộ là đối tượng của du già hướng về chư thiên, đây là việc do tự khởi động của tâm thân và được thể hiện qua hình thức hướng về thiện thần hay ác thần. Chư thiên là đối tượng của tu tập thiền định thường được các lạt ma tuyển lựa dựa trên những phương thức thiện xảo và tùy theo khuynh hướng của hành giả. Hiểu biết về tiến trình quán tưởng đòi hỏi có ý thức và có phương cách mà con người thường cảm nhận sai lầm về thực tại. Thay vì cảm nhận hiện tượng thuần túy và trực tiếp, ý thức của một con người bình thường luôn bị bóp méo tiêu biểu qua trung gian các mẫu mã, khái niệm và phán đoán. Chính vì thế mà nguồn gốc của các nhận định sai lạc này là những ô trược tâm linh làm ngăn trở nhận thức con nguời về bản chất đích thực của hiện tượng. Tiến trình tự quán tưởng của con người thành bậc giác ngộ là phương tiện mạnh mẽ để dẹp bỏ những ô trược tinh thần. Khi hành giả bất đầu quen thuộc với chư thiên do quán tưởng và đồng hoá mình với những bậc này, thì hành giả nhận thức được về bản chất đích thực của tâm mình, một tiềm năng để đạt đến giác ngộ. 

Nhờ trao giồi khả năng thiền định theo chư thiên và biến đổi môi trường tu tập mà hành giả nhận chân khuynh hướng của tâm thân khi có cảm nhận sai lầm, khi bị bóp méo và dự kiến một cách có ý thức về những hình thức và nội dung. Thay vì phải chịu làm nạn nhân của phiền não tâm linh, cảm nhận sai lạc thì nhờ hành trì theo Mật tông, hành giả đạt được chủ động xuyên qua một tiến trình quán tưởng tích cực, tự thực hiện để chuyển hóa tâm linh. Một khía cạnh trong tiến trình này là nuôi dưỡng khả năng kiểm soát tâm linh, nhưng cũng có một khía cạnh khác là tạo ra một thế giới lý tưởng và thể hiện cách cảm nhận qua  giác ngộ, đó là do trí huệ, tâm từ bi, tính ung dung và tinh thần đột biến. Các kinh nghiệm có thứ bậc này đóng góp bổ ích cho tiến trình giác ngộ. Không phải chỉ có khuôn mẫu đặc trưng cho hoà bình, bố thí và từ tâm được sử dụng trong tiến trình này, mà còn có ham muốn và những tư tưởng chủ yếu và cảm xúc khác cũng là phương tiện thiện xảo gây ảnh hưởng đến giác ngộ.     

Những hình thức giác ngộ thường được sử dụng trong thiền định theo Kim Cang Thừa thật rắc rối và biến dạng cực kỳ. Khi hành giả quán tưởng một cách liên tục, cầu nguyện và nhập thân vào một đấng giác ngộ, thì họ sẽ khởi động một ý thức bất nhị của thường tục (một tình trạng có ý thức mà vẫn chưa đạt đến mức độ giác ngộ) và của tối hậu (của tình trạng đạt đến giác ngộ của chư thiên). Tiến trình này tương tự như tình trạng bất nhị giữa luân hồi và thiên đàng, mà trong bản chất của cả hai có đặc điểm như là tính không.

Thiền Chỉ Quán (samatha) và Thiền Minh Sát Tuệ (vipasyana) là hai phương cách chính của tu thiền, thường được sử dụng một các hoán chuyển nhau. Thứ nhất dùng để phân tích và thứ hai để thích nghi tâm thân vào tính không. Hành trì theo Kim Cang Thừa, hình thức giác ngộ của chư thiên được hiểu hai khía cạnh đồng thời nhau, vì vừa là hiện hữu theo thường tục lại vừa là tính không theo tối hậu. Cũng giống như khái niệm về luân hồi và thiên đàng, mà cả hai có mục tiêu tối hậu là có tính hư không, thì ở mực độ thường tục của thực tại, cả hai cùng hiện hữu nhưng không có bản chất chủ yếu. Chính vì thế mà trong khi mục tiêu tối hậu của việc hành trì theo pháp môn Mật tông là giác ngộ, lợi điểm thực tiễn việc tu tập này là tạo khả năng vượt qua mọi trở ngại và được an hưởng một cuộc sống trường thọ.

Kinh điển Mật tông mô tả quy lễ tu tập nhằm kết hợp với các cách hành trì khác nhau liên quan tới các vị hoá thân. Quy lễ Mật tông khởi đầu bằng cách cầu nguyện an trú và khởi động Bồ Đề Tâm, một thái độ vị tha cầu mong giải thoát sinh linh khỏi mọi khổ đau. Kế đến là giải thoát khỏi thực tại thường tình qua dạng của tính không, và thay vào đó, quán tưởng đến vị hoá thân, đấng mà ta muốn dâng hiến và cung kính kỉnh lể. Tia sáng chuyển động sẽ chuyển từ vị hoá thân sẽ xóa tan ô trược và trở nghiệp, để chuyển hoá thành môi trường thành cõi tịnh độ của chư thiên. Thân, khẩu và ý của hành giả và của chúng sinh trở thành đồng nhất với thân, khẩu và ý của đấng giác ngộ. Tất cả hình thức này được coi như hình thức của chư thiên, tất cả mọi âm thanh là mật chú và tất cả tư tưởng là trí huệ giác ngộ của bậc đã đạt giác ngộ. Khi quán tưởng các mật chú được tụng càng lâu càng tốt trong lòng của hành giả

Hành trì kết thúc khi toàn bộ các quán tưởng đạt đến trạng thái tính không. Kế đến hành giả suy niệm trong tâm của mình về đặc điểm của tính không. Cuối cùng, hành giả hướng đến chúng sinh về công đức đã tích lũy đưọc trong lúc tu tập. Chư thiên quán tưởng khi định tâm qua dạng giới đàn (mandala) và nghi thức này cùng với lễ nhạc gồm có cầu nguyện với mật chú bằng pháp âm và pháp ấn. Hình thức quán tưởng theo chư thiên trước đỉnh đầu cho đến khi nào mà hành giả cảm nhận được là mình được thêm sức qua phép quán đảnh, có thể thành chư thiên và đồng hoá mình được với chư thiên giác ngộ về tâm, thân và ý. Một thí dụ về quy lễ là nghi thức theo Phật Quan Âm nhằm trao giồi tính từ bi.

Trong truyền thống Kim Cang Thừa, có vô số Đức Phật và Bồ Tát hành đạo như những vị hoá thân thành Hộ Pháp. Từ chư thiên hay hoá thân dùng ở đây chì có tính hướng dẫn, đã có nhiều chú giảng trong các nghiên cứu tôn giáo tổng quát và đặc biệt nghiên cứu về Mật tông. Thần Hộ Pháp được thể hiện trong hai hình thức hoặc là thiện thần hay ác thần, vì Thần Hộ Pháp có nhiều dạng khác nhau, nên có thể thể hiện cả hai hình thức. Thí dụ một vị thiện thần là Phật Quan Âm, một vị Bồ tát với tính từ bi, mà khuôn mặt thể hiện tịnh khiết và vị tha. Thần Hộ Pháp thể hiện ác thần là Hàng Phục Dạ Ma (Yamantaka), Bát Đầu Minh Vương (Hevajra) và Đại Hắc Thiên (Mahakala). Ác thần không phải là ác qủy, đây là một cảm nhận sai lầm, mà chính là một biểu hiện tâm linh để buộc người tu loại bỏ mọi trở lực nội tại và ngoại lai.

Một vài vị Thần Hộ Pháp có hình thức khác nhau, kể cả thiện và ác. Thí dụ, Lục Độ Phật Mẫu (Tara), là đấng giác ngộ mang hình nữ giới nhưng biểu hiện qua 21 hình dạng khác nhau, mỗi hình dạng có vị thế độc đáo với những đặc trưng chuyên biệt. Tara nổi danh nhờ quyền năng chuyển hoá những ô trược và làm việc miệt mài đem phúc lợi cho chúng sinh. Một khi vị sư phụ thông qua phép quán đảnh tuyển chọn hay chấp nhận một vị Thần Hộ Pháp thì hành giả được phép tu theo pháp môn Mật tông coi vị Thần Hộ Pháp này như là một đối tượng để mình quán tưởng. Khởi động lòng tự hào thần thánh tự hoá thân để trở thành chư thiên thay đỗi nhận thức từ một tâm trạng nhận thức thường tình chưa giác ngộ để trở thành đạt đến tâm trạng giác ngộ.

Lý Tưởng Hoà Bình Của Phật Giáo Và Thực Trạng Bạo Động

Dĩ nhiên lý tưởng của Phật giáo về Hoà Bình không luôn được áp dụng một cách tuyệt vời tại các xã hội theo Phật giáo. Một xã hội binh thường là nơi trú ngụ của những cá nhân bình thường và chưa đạt giác ngộ. Vì thế mà họ là những người dể bị tổn thương với những cảm xúc phiền não, giam tham, sân hận và vô minh. Giống như những kỷ năng khác, tinh thần bất bạo động đòi hỏi luyện tập và thiền định đòi hỏi nhiều thời gian và thật tâm kết ước. Taị các xã hội theo truyền thống Phật giáo, luôn có tu viện và tăng sĩ du già theo việc hành trì này trong cô tịch. Ngay cả tại các xã hội đề cao tinh thần bất bạo đông, không phải tất cả mỗi cá nhân đều có thể hoàn thiện tinh thần hiếu hoà một cách toàn diện.

Liệu có nên xem việc hủy hoại các tiêu cực là bạo lực chăng? Cưỡng chế của các ác thần có nên xem là hữu ích tất yếu cho việc xoá tan những hoang tưởng gây tác hại tâm linh và dẹp bỏ mọi chướng duyên trong hành trì không? Cách cưỡng chế này liệu có thể dùng để biện luận nhằm vượt qua những cơn bệnh của xã hội đuợc chăng?
 
Nếu một nền kinh tế toàn cầu được dẫn dắt bởi các bậc đạt giác ngộ và những động lực thúc đẩy của họ chỉ nhằm đem lại phúc lơi cho mọi tạo vật trên thế gian, thì thành qủa này là tích cực. Nhưng nếu nền kinh tế toàn cầu được điều khiển bởi các cá nhân chạy theo tư lợi và do lòng tham thúc dục, thì việc điều hành cơ chế chỉ đưa tới lừa đảo, tham nhũng và bóc lột. Bất công kinh tế ngày một gia tăng đưa tới căng thẳng và xung đột có bạo lực.

Nguồn Lực Của Phật Giáo Cho Hoà Bình

Truyền thống Phật giáo theo Kim Cang Thừa có những nguồn lực nào để tạo hình cho một thế giới bất bạo động? Trước hết, cũng giống như các truyền thống Phật giáo khác, Kim Cang Thừa giúp ta tìm ra nhận thức có ba đặc điểm chủ yếu của cuộc sống (tam pháp ấn): khổ, vô thường và vô ngã. Nhận thức về khổ tìm ra được thực tại mà vạn vật là không thể trường tồn. Nhận thức về vô ngã xoá tan tinh thần vị kỷ và bất chấp quyền lợi riêng tư mà Phật tử xem là nguồn gốc cho tranh chấp và phản ứng bằng bạo lực.

Suy giải về vô ngã cũng là một phương tiện tìm hiểu về con người bằng cách nhận chân ra ngũ uẩn, đó là sắc, thọ, tưởng, hình và thức. Suy nghĩ về ngũ uẩn giúp ta xoá tan những khái niệm thông thường về bản ngã, một khái niệm quen thuộc về bản ngã trong cụ thể, một thực thể đang xãy diễn, và khái niệm về bản ngã như một thực tại thường hằng, vì nó sẽ có giá trị nhiều hơn.

Tiến trình phân tích này thường được dùng để nhìn thấu đáo hơn về khái niệm bản ngã, tách rời những khuôn mẫu bám chặt vào bản ngã, ràng buộc này dẫn đến xung đột có bạo lực. Tiến trình này giúp ta nuôi dưỡng nhận thức về bản chất đích thực và hành động để giải độc những tư tưởng nắm chặt tự ngã và ham muốn.

Tu tập có quan hệ là suy niệm về tính vô ngã của bản ngã và của hiện tượng. Hành trì này nhằm tháo gở mọi ràng buộc tự ngã vì xem bản ngã như là một cuộc sống đích thực. Lợi điểm thiết thực của việc hành trì này là đạt đến khả năng bỏ đi những kỳ vọng, phẩn hận, ác cảm, thất vọng, giận dữ khi mọi kỳ vọng không đạt được. Một lợi điểm khác của tu tập là đặt nghi vấn về những suy đoán. Những nghi vấn quen thuộc có liên hệ ở đây là kỳ thị giới tính. Kỳ thị này tạo quan điểm về kinh nghiệm của hai loại giới tính một là bị trị hoặc một là  thống trị. Qua tiến trình phân chia theo giới tính xem đàn ông là chủ động và đàn bà là thụ động, thì khái niệm này có thể tháo gở thành kiến trọng nam khinh nữ, vì gây tác hại. Bạo lực cuồng loạn qua các phim ảnh hay video trở thành món ăn hàng ngày cho khán giả có thể được xem như một loạị sản phẩm tạo nên phân biệt giới tính trong xã hội. Khi cho là nam giới thì cứng rắn và hung hãn, còn nữ giới thì e dè và thuần phục, thì khái niệm này phân chia cá nhân thành những khuôn mẫu trái hẳn với tự nhiên và gây nản lòng, tất cả tác động đến những thái độ gây hấn, làm thiệt hại và áp dụng theo quân phiệt.
Khi các khuynh hướng của các chính phủ muốn đạt mục tiêu của mình và có gây tác hại tôn giáo thì Phật giaó cũng không thể tránh khỏi ảnh hưởng. Sau khi được du nhập vào Tây Tạng thì Phật giáo là một nguồn lực mạnh trong việc tạo an hoà, nhưng cũng có những hành vi baọ lực lại thĩnh thoảng xảy diễn, ngay cả giữa các tu viện với nhau. Lịch sử cho biết là để củng cố quyền lực tại Tây Tạng Ngài Đạt Lai Lạt La V đã hợp tác với Mông Cổ và có trừng phạt với các tấn công bằng vũ trang.

Phật giáo cùng đồng tình với Hobbes khi triết gia này nói là nguyên nhân của bạo lực không phải do nhân tính, nhưng vì thiếu sự tưởng tượng về giải pháp bất bạo động luôn sẳn có, chỉ cần đề ra một cách khôn khéo và thi hành. Quan điểm đạo đức quốc tế của Đat Lai Lạt Ma XIV và những hành vi bất tuân dân sự của người Tây Tạng lưu vong và trong nước chứng tỏ rằng đề kháng không cần bạo lực là hữu hiệu. Ngay cả khi đối đầu với bạo lực đang gia tăng trong thế giới ngày nay,  lòng chính trực đạo đức của tinh thần đối kháng bất bạo động vẫn luôn được công nhận và cổ vũ.

Đỗ Kim Thêm (dịch)

*         *        *

Nguyên tác bản dịch: “Shi Wa: A Vajrayana Buddhist Perspective”, The Palgrave International Handbook of Peace Studies: A Cultural Perspective, Wolfgang Dietrich, Josefina Echavarria Alvarez und Gustavo Esteva von Palgrave (2011), 229-242, Basingstoke, Palgrave Macmillan. Bản dịch không có phần chú thích và thư mục tham khảo trong nguyên tác.      

Karma Lekshe Tsomo là giáo sư Phật Học tại Đại học San Diego và là tác giả sách Into the Jaws of Yana, Lord of Death: Buddhism, Bioethics and Death (Albany: State University of New Yorrk, 2006).