Trang chủ Nghiên cứu Triết học Hoà bình theo quan điểm của Kim Cang Thừa, phần 1

Hoà bình theo quan điểm của Kim Cang Thừa, phần 1

393

Để thảo luận về vấn đề Hoà Bình theo quan điểm của Kim Cang Thừa ta cần tìm hiểu hai khái niệm Hoà Bình và Kim Cang Thừa cùng những truyền thống đặc sắc của Kim Cang Thưà. Trong phạm vi này, thì tìm hiểu tiến trình của Kim Cang Thưà trong mối quan hệ với các truyền thống Phật giáo khác và nhận thức về mối quan hệ gắn bó giữa Hoà bình và Kim Cang Thừa là vấn đề khả thi. Mặc dù Phật giáo Kim Cang Thừa có ở Trung Quốc, Nhật Bản và các nơi khác, nhưng tiểu luận sau đây sẽ đặt trọng tâm vào truyền thống Tây Tạng.

Định Nghiã Hoà Bình (Shi Wa) Theo Kim Cang Thừa

Âm shi thuộc về hợp âm shi wa trong ngôn ngữ Tây Tạng có hai dạng, vừa là danh từ có nghĩa hoà bình, và vừa là động từ có nghiã là ổn định hoá, tạo yên lành hoặc dẹp yên. Âm shi thể hiện trong hai hợp âm quan trọng là shi de và shi ne. Shi ne theo nghiã phổ thông là hoà bình, kết hợp của shi là hoà bình với de nghiã là hạnh phúc. Mối quan hệ chặt chẽ giữa hoà bình và hạnh phúc cho thấy cả hai là một tình trạng gắn bó mật thiết và hoà bình là một tình trạng cầu mong có hạnh phúc. Từ shi de chỉ tình trạng an bình và hạnh phúc trên bình diện cá nhân, cộng đồng, quốc gia và quốc tế. Trên bình diện cá nhân shi de chỉ sự an hoà thuộc khía cạnh tâm lý và tâm linh, thực ra hai khía cạnh này kết hợp nhau đến độ hầu như không còn phân biệt được. Mục đích giải thoát được coi là tình trạng tối hậu để đạt đến an hoà. Có môt câu nói nổi tiếng của Đức Phật khi giải thích về “Tứ Pháp Ấn” hay nguyên lý triết học của Phật giáo như sau :

“Mọi tạo vật là vô thường
Mọi ảo vật là bất toại
Mọi hiện tượng là trống không của hiện sinh cố hữu
Niết Bàn là hoà bình“ (Thích Ca Mâu Ni)

Âm shi trong hợp âm shi me cũng có thể dịch là an hoà vĩnh cữu, một hình thức đặc biệt trong tu tập định tâm hay an định. Có chín giai đoạn liên tục để mô tả việc đạt đến tình trạng định tâm tĩnh lặng của tu tập thiền định: định vị (định tâm vào một đối tượng), định vị liên tục, tái lập định vị, cận định, chế ngự tâm linh, an định, an định toàn diện, tập trung vào một chủ điểm và đạt đến trầm lắng.

Từ vajra được dịch nhiều cách khác nhau như là sự kiên quyết, có tính bất hoại, sấm sét và kể cả hàm chứa quyền năng. Từ yana được dịch là bánh xe, cỗ xe hay sự chuyên chở theo ý nghĩa một con đường dẫn đến giải thoát hay giác ngộ. Khi ghép thành varayana (Kim Cang Thừa) có nghĩa là một tông phái Phật giáo Đại thừa sử dụng phương pháp thiền định theo Mật tông. Từ này thường được dùng mà không phân biệt với tantrayana (Mật tông) và matrayana (Chân Ngôn Thừa). Đôi khi từ này cũng được coi như là Phật giáo thần bí dựa theo Hoa ngữ là mi cong hay Nhật ngữ là mikkya.

Từ mantra (Thần chú) có nghiã văn chuơng là mạch, chuỗi hay dòng, và được diễn dịch là dòng ý nghĩa, một mạch của sự liên tục hay truyền thừa về những lời giáo huấn. Tantra (Thần Chú bằng văn bản) có tiếng là một loại hợp kim, không phù hợp với ý thức hệ có tính quy phạm. Nghi lễ theo Mật tông có sử dụng nhiều phẩm vật như thịt và rượu, đó là những thứ bị cấm trong việc tu tập của tôn giáo khác.    

Lịch Sử Còn Tranh Luận

Con đường tu tập theo Phật giáo mở ra nhiều phương hướng: thuần lý và chuyên tâm, nhiều màu sắc và khổ hạnh, uyên náo và suy niệm. Phật giáo được gọi là một tôn giáo có đặc tính phổ quát, không phải chỉ làm thay đổi tín ngưỡng của tha nhân mà còn kết hợp những giá trị chung như hoà bình, từ bi và thành tín. Người ta dù có khác nhau về văn hoá, khuynh hướng, trình độ, chuyển hướng và tình trạng phát triển tâm linh đều có thể tìm đến Phật gíáo để tiếp cận và tu tập một cách thích hợp cho riêng mình.

Theo truyền thống Tây Tạng, Đức Thích Ca Mâu Ni đã truyền giảng pháp môn Mật Tông khi Ngài còn tại thế, nhưng lời giảng quá khó hiểu cho người thông thường, vì thế mà lời giảng này được truyền thừa một cách bí mật qua hàng trăm năm. Theo lời các sử gia, những lời giáo huấn bắt đầu từ khoảng thế kỷ thứ IV tại Ấn Độ. Dù giáo huấn này có khi trở thành văn tự, cách truyền đạt giáo huấn từ sư phụ cho đệ tử vẫn còn tiếp tục và được coi như là chủ yếu để kiểm chứng tính cách trung thực của các kinh sách hay lời giảng huấn. 

Phật giáo Mật Tông được du nhập vào Trung Quốc và Nhật Bản qua nhiều đường lối và thời điểm khác nhau từ thế kỷ IV sau Tây Lịch cho đến ngày nay. Dù kinh điển Phật giáo Mật tông vẫn còn tồn tại bằng tiếng Sankrit, những bí ẩn về giáo huấn của Phật giáo Mật tông được lưu giữ trong ngôn ngữ Tây Tạng. Ngoài kinh điển, truyền thống hành trì theo pháp môn Mật tông còn ảnh hưởng tiếp nối cho đến ngày nay, dù chủ yếu là ở Tây Tạng, nhưng cũng có ở Trung Quốc và Nhật Bản là hai nơi có trong hai tông phái Chân Ngôn Tông và Tào Động Tông.

Khái Niệm Về Hoà Bình

Ràng buộc vào bản sắc và ý thức hệ là nguyên nhân chủ yếu cho việc sử dụng bạo lực trong thế giới ngày nay. Giáo huấn của Phật giáo về Vô Ngã nhằm rà soát lại những nguyên nhân của việc bám chặt vào bản ngã, chỉ quan tâm đến mình và tính tự cao tự đại của cái tôi. Khi hiểu biết về việc không có một loại tinh thần hiện hữu bất biến và độc lập hoặc là một loại khả năng có thể tự giải quyết sẽ làm giảm nhẹ mọi ràng buộc vào bản ngã và sở hữu, mà đó chính là trọng tâm của tranh chấp. Con người phải có những dị biệt về triết lý và tôn giáo hay tông phái, nhưng đó phải không là để giết nhau. Hiểu được sự vô thường của tư tưởng, thái độ và ý thức hệ giúp ta linh động hơn, khoan dung và không phản ứng khi gặp phải những người có những quan điểm khác biệt với mình.

Thái độ của Kim Cang Thừa về hoà bình và bạo lực là cùng có chung một cơ sở  với các truyền thống Phật giáo khác. Hoà bình và bất bạo động được đánh giá rất cao và phương cách tu tập theo Phật giáo là để phát huy đạo đức, trí huệ và từ bi cốt được đào luyện để đạt đến lý tưởng này. Lời giáo huấn của Đức Phật về “oán baó oán sẽ không bao giờ hết oán, chỉ có từ bi mới giải quyết vấn đề” thường được truyền tụng như là phương châm để sống. Tín đồ không được phép làm hại bất cứ người nào, thay vào đó, phải trân quý những người khác như chính người mẹ thân yêu hay đứa con duy nhất của mình. Phật tử được dạy là không một người nào muốn bị đau khổ và chính vì thế mà phải bảo vệ cuộc sống và để mọi sinh linh thoát khỏi mọi tổn hại, từ thể xác cho đến tinh thần, đó là điều an lạc và tạo công đức.

Đạo đức Phật giáo được hình thành nhằm bảo vệ con người thoát khỏi mọi tổn hại và không làm hại lẫn nhau. Để sống phù hợp với quy luật nghiệp báo, thì mọi hành động tạo ra hậu quả và nhân nào thì quả nấy. Điều này có nghĩa là mọi hành vi tốt đẹp sẽ tạo những hậu quả an lành, trong khi hành vi không tốt đẹp sẽ gây hậu quả tương tự. Để tuân theo giáo lý này, Đức Phật dạy những quy luật qúy giá, tín đồ phải đối xử tốt với tha nhân giống như khi họ muốn tha nhân đối xử tốt với mình. Sự phát triển để quân bình tâm linh và trao giồi đức hạnh như từ bi và bác ái được tin là tạo điều kiện đưa tới hoà bình và hạnh phúc. Kinh điển Phật giáo có ghi nhiều cách trao giồi đức hạnh để nhằm ngăn ngừa những xung đột có bạo lực, giải quyết căng thẳng, duy trì bình ổn và hiển nhiên tạo được bình an tâm hồn. Theo quan điểm này, không có một kỹ thuật nào thật đặc biệt được đề ra để kiến tạo hoà bình. Đúng hơn, khi một con người thực sự có lòng đạo đức và từ bi, tất nhiên người này là một người kiến tạo hoà bình. Một người trao giồi tính an hoà trong thiền định sẽ trở thành hoà ái hơn, ít phản ứng hơn, và có nhiều tĩnh thức hơn đối với người khác trong đời sống hằng ngày. Bằng cách này, bình an tâm hồn sẽ mở rộng cho đến cộng đồng chung quanh, hành giả trở thành người đem xoa dịu và là nguồn lực tự nhiên cho mọi chuyển hoá xung đột. Phương cách ngăn ngừa và giải quyết xung đột được cô đọng lại trong đường hướng này của Phật giáo. Mọi cách thực hiện của Phật tử có thể đúc kết theo khuôn mẫu này.

Trao giồi đức hạnh trực tiếp đưa tới việc nghiên cứu đạo đức Phật giáo. Đạo đức Phật giáo có nhiều phương cách hình thành khác nhau, nhưng theo truyền thống Tây Tạng thì có đề ra ba giới luật, đó là Bồ Đề Mộc Xoa, (pratimoksa), Bồ Đề Tát (bodhisattva) và Mật Giáo (tantric). Cá nhân tự luyện tập theo ba giá trị đạo đức này sẽ tạo một nền tảng đạo đức cho việc bồi dưỡng tâm linh và tạo một xã hội an hoà. Giới luật Bồ Đề Mộc Xoa là nền tảng đạo đức cho việc giải thoát cá nhân. Cả hai giới cư sĩ và tăng sĩ buộc phải giữ giới luật không được sát sanh, trộm cắp, nói dối, tà dâm và dùng ruợu. Giới luật Bồ Đề Tát là kỷ luật nhằm tạo phúc lợi và giải thoát chúng sinh khỏi khổ đau. Hơn nữa, hành trì theo pháp môn Mật Tông đòi hỏi khấn nguyện tuân thủ theo 14 giới luật chính và mười giới luật bí mật. Người theo giới luật của Mật Tông phải tuân thủ thêm giới luật của Bồ Đề Mộc Xoa và Bồ Đề Tát. 

Giới luật Phật giáo nhằm xây dựng xã hội an hoà và có những quy tắc đạo đức dành cho cá nhân bình thường và giới lãnh đạo. Mười tính hạnh của nhà lãnh đạo có đạo đức bao gồm lòng rộng lượng, đức hạnh, hy sinh, thành tín, tự kiểm, thân ái, thanh lịch, từ bi, khiêm tốn và khoan nhẫn. Nhà lãnh đạo lý tưởng là người cai trị với thành tín, công bình và từ bi. Với những nguyên tắc này làm nền tảng cho việc cai trị, quốc gia có thể đạt được hoà bình và ổn định, tạo điều kiện cho người dân được hạnh phúc và thịnh vượng. Những đức tính này không chỉ là nguyên tắc áp dụng cho lãnh đạo. Dĩ nhiên, những tính hạnh này làm kim chỉ nam cho cai trị tốt đẹp cũng được có thể mở rộng để áp dụng cho cá nhân.

Những hướng dẫn của Đức Phật nhằm tạo lập một xã hội an hoà không thể bảo đảm là mục tiêu này sẽ đạt được, vì nhiều xã hội theo Phật giáo dễ bị tổn thương do tấn công và bị tham nhũng do những lực lượng ngoại nhập hay do những cá nhân thiếu đạo đức ngay trong lòng xã hội. Dù có lý tưởng hiếu hoà, các nước theo Phật giáo cũng có những nhà độc tài thô bạo và xung đột diệt chủng. Vì những thực tại này làm cho vấn đề giá trị hoà bình được coi như là nguyên tắc chỉ đạo cho bất cứ tình huống nào. Nhưng trước tình trạng hay đối với các đối thủ có tiềm năng dùng bạo lực thì cách cưỡng chế có thể biện luận được không? Liệu có thể so sánh cưỡng chế như hình ảnh ác thần hung nộ đánh đuổi những điều bất thiện trong ta không? Trong chừng mực nào thì những biện pháp quyết liệt này là phù hợp với tác động tích cực cho hoà bình? 

Bạo Lực Và Hậu Quả

Đối với truyền thống của Phật giáo, kể cả Kim Cang Thừa, khi nghiên cứu thực tế thì tất cả xem bạo lực là vô nghiã. Theo quan điểm về giới luật của Phật giáo, khi cầu cứu đến bạo lực thì thắng là ít mà thua thì nhiều. Cái giá của bạo lực phải trả là chiụ cảnh chết chóc, tổn hại, mất mát, hao kém tiền bạc và gia sản, phá hủy môi trường và tổn hại về mặt tâm lý, tất cả vượt qua xa mức thắng lợi có thể đạt được. Hơn thế, việc này phù hợp với quy luật nhân quả vì có ít thiệt hại đáng kể. Hành vi bạo động luôn gieo mầm cho hận thù sau này trong tinh thần của thủ phạm sử dụng bạo lực và nạn nhân và gia đình của họ. Chính vì thế mà bạo lực biểu hiện suy đồi đạo đức dẫn đến suy vi trầm trọng mọi giá trị.

Theo tinh thần của Tứ Diệu Đế, Phật tử theo truyền thống Tây Tạng xét đến nguyên nhân của bạo lực và nhận ra ba ảo tưởng tác hại cho tâm linh là gian tham, sân hận và vô minh. Ba ảo tưởng này được coi là nguốn gốc của vấn đề xã hội, kể cả trộm cắp, giết người và bạo hành trong gia đình. Những vấn đề này không thuần là cá nhân hay địa phương, nhưng còn có thể mở rộng khắp bốn phương. Thí dụ gian tham và mê say theo chủ nghĩa tiêu thụ ở một nơi trên thế giới có thể là nguyên nhân cho nghèo đói, bất công xã hội và bất ổn chính trị cho những nơi khác.

Hiện nay, nhờ những phương thức chuyển vận và thông tin được cải thiện mà con người trên toàn địa cầu được nối kết nhau và ngày càng được gần gũi nhau nhiều hơn, kể cả ở những nơi hẻo lánh nhất. Những nối kết tăng lên đòi hỏi sự hiểu biết nhiều hơn, tôn trọng và từ bi hơn bao giờ hết, để ngăn ngừa hiểu lầm có thể gây ra tranh chấp và bạo lực. Mối quan hệ của mọi sinh hoạt là một bài học về sự tương thuộc trong một thế giới càng ngày càng nối kết.   

Khái niệm về Hoà bình của Phật giáo là toàn diện, nối kết sự phát triển tâm linh và hoạt động trong thế giới hằng ngày. Khởi đầu với sự chấp nhận và chuyển hoá những mầm móng bạo lực trong tâm trí từng con người, người ta có thể mở rộng một chương trình hành động từ căn bản cá nhân rồi đến gia đình, cộng đồng, quốc gia và vượt qua để tiến đến toàn vũ trụ. Kinh điển Phật giáo mô tả một nền hoà bình toàn diện bao gồm mối quan hệ xã hội, chính trị và cá nhân cũng như là mối quan hệ tâm và thân của cá nhân. Quan niệm tổng thể về một nền hoà bình toàn diện có thể được coi như là một phương tiện vừa ngăn ngừa và chỉnh sửa việc sử dụng bạo lực sai lầm theo cấu trúc. Lý tưởng của Phật giáo về khoan dung và kết hợp văn hoá, cũng có thể được coi là một phương tiện để ngăn ngừa và sửa sai bạo lực xuất phát từ văn hoá. Như đã được nhiều người biết rõ, tinh thần khoan dung và tôn trọng sự đa dạng các quan điểm tôn giáo và triết học được công nhận như là một yếu tố chính trong sự phát huy trong lịch sử của Phật giáo. Phật giáo thích ứng thành công trong những môi trường mới lạ và nhất là khi có khác biệt về văn hoá. 

Khái niệm về Hoà bình như là hành vi bất bạo động mang tính cấu trúc đòi hỏi ta nhận định lại tất cả khái niệm và thái độ thường làm hợp pháp hoá bạo lực trong mọi hình thức. Vì thế mà cách nhận định này trở nên cần thiết để phân tích mối quan hệ giữa bất bình đẳng giới tính và bạo lực, đặc biệt là những cấu trúc tạo nên bạo hành chống phụ nữ và trẻ em. Mọi hình thức phân biệt giới tính làm hại đến một vài mức độ của sự an hoà, đó là kết quả.   

Nền Tảng Triết Lý Của Tinh Thần Bất Bạo Động

Là một tông phái của Phật giáo Đại thừa, mục tiêu và thành quả của việc hành trì theo Kim Cang Thừa nhằm đạt Phật tính. Những điều kiện thiết yếu cho việc tu tập theo cách này là theo ba nguyên tắc dẫn lối mà Atisa, một tăng sĩ người Ấn và cũng là một học giả đã chú dẫn trong tác phẩm “Ánh Sáng Soi Đường Giác Ngộ” (1983) như sau: từ bỏ, đạt tâm Bồ Đề và trực diện tính không. Từ bỏ đuợc định nghiã là quyết định không còn muốn tái sinh vào cõi luân hồi. Thái độ tĩnh thức là nguyện vọng vị tha mong đạt được như tình trạng giác ngộ tuyệt mỹ của Đấng Như Lai để nhằm cứu chúng sinh vật thoát khổ. Trực diện tính không là một loại trí huệ đạt được khi xem thực tại cố hữu của mọi hiện tượng là không thực. Nếu không theo đuổi ba nguyên tắc này, thì việc tu tập theo Kim Cang Thừa không thể đạt được mà còn nguy hiểm.       

Lập luận theo sau ba nguyên tắc tu tập này kết hợp toàn diện đưa tới sự hiểu biết quan điểm Kim Cang Thừa về hoà bình và bất bạo động. Trước tiên, để đạt đến tình trạng giải thoát hay giác ngộ, điều cần thiết phải khởi động cho việc từ bỏ tuyệt đối. Thúc đẩy này có nghĩa là từ bỏ mọi ràng buộc trong vòng luân hồi và từ bỏ mọi nghiệp dẫn đến tái sinh, đặc biệt là những hành vi bất thiện dẫn đến tái sinh trong điều kiện chuyển kiếp bất hạnh với mức độ thấp hơn, thí dụ như thú vật, qủy đói hay sa vào địa ngục. Giết một sinh vật hữu tình (là một sinh vật có ý thức) được xem như là một hành vi bất thiện nghiêm trọng mà kết qủa là tái sinh vào địa ngục. Không phải chỉ bị hành hạ trong địa ngục mà còn chịu hình phạt trong cả một thời gian dài, gây trở ngại lớn lao cho việc đạt đến giải thoát.  

Thứ hai, để đạt đến giác ngộ tuyệt mỹ, khởi động tâm Bồ Đề là cần yếu. Tĩnh thức này trở thành đấng Như Lai giác ngộ toàn diện và hỗ trợ cho chúng sinh thoát khỏi vòng luân hồi. Đây là một công việc mà Tôn giả Tịch Thiên (Santideva), một sư phụ người Ấn xem là căn cơ nhất trong 84.000 pháp môn của Đức Phật. Có bảy bước tu luyện để đạt đến giác ngộ, tùy theo sự hiểu biết mà tất cả mọi chúng sinh sẽ tái sinh vào cõi luân hồi. Vì thế, mọi chúng sinh đều có liên hệ nhau trong nhiều cách khác nhau.

Bảy bước đó là 1) công nhận chúng sinh như là mẹ chúng ta trong một thời điểm nào đó, sinh ra trong chúng ta và chúng tỏ cho chúng thấy lòng từ ái vô hạn. 2) công nhận chúng ta nhận nhiều ân huệ của chúng sinh vì họ là mẹ và cưu mang chúng ta với từ tâm. 3) quyết tâm đền đáp lòng từ ái này cho tất cả chúng sinh. 4) khởi động từ tâm, cầu mong cho chúng sinh đạt đuợc hạnh phúc 5) khởi động lòng từ bi, công nhận rằng chúng ta hiện không đủ khả năng để cứu mọi chúng sinh thoát vòng đau khổ 6) khởi động suy tưởng đặc biệt, quyết tâm nhận trách nhiệm giải thoát chúng sinh khỏi vòng đau khổ và cuối cùng 7) đạt đến tâm Bồ Đề đích thực, mơ uớc đạt đến giác ngộ, công nhận rằng chỉ có Đấng Như Lai giác ngộ có khả năng gải thoát chúng sinh khỏi đau khổ. Để trở thành Như Lai thức tĩnh toàn diện, điều cần thiết là phải tránh phải tránh mọi hành động và suy nghĩ bất thiện và cố đào luyện thực hành mọi suy nghĩ và hành động hướng thiện. Kết quả là điều tất yếu là tránh làm tổn hại cho mọi sinh linh, gồm có mọi hành vi bạo lực dù là qua thân, tâm và ý.

Thứ ba, để đạt đến tình trạng giác ngộ, cần phải phát triển việc trực diện tính không. Cội nguồn của mọi hành vi bất thiện và ràng buộc với chúng sinh trong vòng luân hồi là vô minh, hoặc là không hiểu biết về những cách đích thực của sự hiện hữu của các hiện tượng. Chúng sinh vô minh sẽ hiểu biết sai lạc về những hiện tuợng vô thường mà cho là thường hằng, những hiện tượng bất toại mà cho là thanh thoả, và những hiện tượng không có bản ngã mà lại cho là có bản ngã, và chủ yếu hay hiện hữu đích thực   

Nếu hành trì theo Kim Cang Thừa, thì thiền định sẽ phát huy được nhờ kỹ thuật  thiền định của du già về những luồng gió và luồng năng lượng trong cơ thể. Khả năng kết hợp 72.000 nguồn gió hay năng lượng vào thành một nguồn tâm lực chính là điều có thể tôi luyện được, nhờ thế, mà đến phút lâm chung, người ta có thể chuyển hướng ý thức của mình thẳng vào cõi tinh độ của Phật A Di Đà. Trong bốn cách của Mật tông là thực hành, tạo thành quả, thiền hành và tránh loạn động – hành giả sẽ khởi động quán tưởng những thể hiện sinh động của chư thiên, tự đồng hóa mình như là những chư thiên đã giác ngộ và cuối cùng hãnh diện thành chư thiên.

Hình ảnh đạt giác ngộ là trọng điểm trong sự quán tưởng mà người tu thể hiện qua hình thức hoặc là thiện hay ác. Mục đích không phải là vượt qua những ô trược về tâm ý hoặc là chuyển hoá chúng, mà còn đối diện với chúng, sử dụng chúng trong tiến trình thức tĩnh. Như là phân bón cho ruộng đồng, những cảm xúc gây đau khổ như mong muốn, nếu sử dụng một cách khéo leó, có thể được dùng trong lộ trình này. Thí dụ như trong bốn cách hành trì theo pháp môn Mật Tông, hành giả khởi động một cách có ý thức bốn loại hạnh phúc này – thể hiện qua nhìn, cười, ôm nhau và kết hợp – và sử dụng những thể hiện này như là phương tiện cho việc tu luyện theo con đường này. Biểu tượng nam nữ kết hợp là quy luật cho sự bổ túc giữa những phương tiện thiện xảo của nguời nam gắn bó với trí huệ của người nử. Tính cách thần thánh trong sự kết hợp thân xác nam nữ là biểu hiện hạnh phúc không thể tách đôi và đạt đến tĩnh lặng.

Hết phần 1

Đỗ Kim Thêm dịch