Khi kéo chiếc va li ra khỏi phi trường Phú Bài, mắt tôi như chóa ánh lửa đêm Giao thừa nấu bánh sắp tới. Ðến Huế, cảm giác của một người ngoại cuộc bỗng rõ nét hơn bao giờ, dù anh em gặp nhau mừng rỡ. Ðêm nằm ngủ trong căn nhà rộng, vắng trẻ và già, nghe lạnh một bên lưng, tôi nghĩ đến cái bếp lửa Giao thừa tưởng tượng trên sân bay, thấy sự cô quạnh lớn dần úp chụp lấy người và nỗi nghi ngại không biết mình có dựng lại nổi cái bếp lửa quá khứ làm run giấc ngủ. Ngày hôm sau hành trình “Ăn Tết” đã trở nên cuộc đi chênh vênh trên sườn núi…
Chiều ba mươi Tết…
Xế trưa tôi lên chùa Từ Ðàm cúng dường Tất niên theo tục lệ gia đình từ xưa.
Thấy các Thầy trẻ đang lúi húi chưng mấy cành mai tứ quí, những cành đào vào các độc bình, sửa dáng trên các chậu bonsai, vài Thầy khác đứng bên bình phẩm bi bô ni tê, tạo nên một góc chộn rộn ba bữa Tết trong cảnh yên lặng nhà chùa. Những chậu hoa kiểng chưng trước tam cấp đi lên phòng khách và phòng trai tăng, nơi Ôn ngày xưa hay ngồi đọc sách hoặc tiếp khách, hoa lá hôm nay sáng rỡ lạ thường, tươi tắn như vừa được tắm tất niên. Cây Bồ Ðề cổ thụ đang trổ lá non vẫn hồn nhiên thân thiện như độ nào. Hoa mộc vẫn thơm hiền hòa. Cửa tam quan và chánh điện treo đèn lồng trái ú kết tua ngũ sắc làm tăng vẻ trang nghiêm mừng đón năm mới. Mọi rộn ràng hối hả sửa soạn đón xuân dưới phố bỗng dừng lại nơi cổng chùa, không khí an lành, khiêm nhã quyện màu lam thiền, mộc mạc nhưng đầy lạc tịnh. Ðó đã là Từ Ðàm một thời của tôi và đến hôm ấy vẫn còn là như thế.
Tôi hỏi xin Thầy Hải Ấn cho mượn chiếc xe đạp đi lên thăm các chùa sư nữ và thăm mộ mẹ tôi ở gần đấy. Thầy ái ngại sợ tôi đạp xe loạng quạng, tôi thưa “nữ sinh Ðồng Khánh đạp xe từ lúc mười bốn tuổi, thưa Thầy”. Khi thấy tôi lên yên xe đứng trên đầu dốc đường hẻm sau chùa, một chú tiểu lắc đầu, chỏm tóc thí phát phất phơ, hóm hỉnh: “cô Kim Lan thiệt là tiền hậu hiện đại, thời nay Honda là mức chót của tân tiến, mà cô lại trở về với xe đạp…”. Câu nói đuổi theo khi xe lao xuống cái dốc hẻm sau chùa và thẳng hướng cầu Lim. Qua viện dưỡng lão của ni sư Diệu Thành, tôi cúng dường để quí sư cô “lì xì” cho các mệ già vui ngày mồng một Tết.
Trời đã nhá nhem khi tôi gõ cửa chùa ni sư Diệu Ý, chùa cô nuôi các bệnh nhân đã hết phương cứu chữa, bị bệnh viện sa thải, theo phương pháp nhịn ăn do bác sĩ Xuân Quế chăm sóc và hướng dẫn. Chùa đã lên đèn chuẩn bị cúng chiều, các phòng bệnh yên lặng trong không khí ẩn nhẫn an bình, tưởng như thời gian không cần có tên gọi…
Vẫn dáng mừng rỡ thân tình, sư cô nắm cả hai tay ấm áp, tôi thưa, xin cúng dường quà cho bệnh nhân và tiền cúng xây tháp Quan Âm cầu nguyện cho bệnh nhân, đã hứa với cô từ lâu, “sợ lời hứa kéo dài qua ngày mai là thêm một năm nữa thì nợ càng chồng chất!”. Nợ nần năm cũ phải rủ hết để bước sang năm mới thong dong. Sư cô cười bảo “chị đi Tây rứa mà cũng theo xưa ghê hè!”. Thấy tôi vội vàng cáo từ để sang thăm mộ mẹ kẻo sợ tối, cô sốt sắng dẫn tôi đi con đường tắt từ chùa sang đồi thông.
Con đường đất ngoằn ngoèo giữa các nương sắn, chanh, thanh trà, bưởi, mía, ổi, bỗng mở ra trước mắt cảnh êm đềm đón Tết miền quê trong ánh chiều mờ nhạt. Xa hẳn với cảnh bát nháo hỗn loạn đầy nhãn hiệu quảng cáo sặc sỡ ngoài phố, mùi lá chanh, lá bưởi, lá ổi thanh lọc khứu giác làm cho ấn tượng về ngoại cảnh bỗng quay chiều. Mùi hương tinh khiết thoảng đến dẫn dắt vào trong một thế giới vừa lạ vừa quen.
Hình như cái không khí đón Tết miền quê vẫn như thế tự bao đời: âm thầm, kính cẩn, mầu nhiệm và chân tình, mà trẻ thơ thường linh cảm bề sâu của nếp sống ấy và giữ hoài trong tâm, cho nên quen thuộc như màu chiều đang phết tím ngọn cây…
Các nhà trong xóm đã lên đèn, bóng người loáng thoáng vào ra trước ngõ thắp hương, cúng đất đai thổ thần, chuẩn bị giờ hoàng đạo. Mùi hương trầm từ các ngôi miếu nhỏ trong vườn (vườn Huế thường có miếu thờ thổ thần, đất đai) lãng đãng huyền nhiệm theo chân chúng tôi đến nơi mộ chí. Tôi thắp hương cho mẹ và đứng mặc niệm hồi lâu.
Hơi lạnh buổi cuối năm luồng trong gió vi vu trên cành thông từng cơn như tiếng thời gian đang chuyển. Âm vang năm tháng đang lụi tàn dội xuống triền đồi, lan mau như bước chân gấp gáp của ai trên đường về ngõ sâu.
Giờ cuối năm xao xuyến, hồn người như chới với muốn níu lại, giữ lại những gì đã qua, rồi chợt ngậm ngùi cảm nhận, tháng cùng năm tận là dấu vết vô thường phảng phất trên những ngọn đồi hoang vu, gánh chịu buồn bã của Huế – và hình như chỉ có ở Huế vào chiều hôm tuế mộ, cõi nhân gian và âm phủ giăng mắc gần nhau gang tấc.
Ánh sáng cuối đang hấp hối giành lại những khoảnh khắc ngắn ngủi cho cõi dương, những chấm hương đỏ trên các mộ chí rải trên đồi chập chờn gọi linh hồn u hiển.
Tôi đưa tay lùa những hòn cuội trên mộ như nắm bàn tay của mẹ trước khi ra về – còn nhớ ngày xưa mẹ thường bảo chúng tôi mỗi đứa một phương, đứa Linh Mụ, đứa Ngự Bình, thăm mộ ông bà mời quí vị về nhà ăn Tết – tôi nói thầm “chúng con mời mạ về nhà ăn Tết”. Gió chiều thổi phật nhúm hương lóe lên từng chợp. Tôi nhớ mẹ thường bảo, cũng vào một chiều tuế mộ nào năm xưa, hễ khi nhang phựt lên như thế là hiển linh ứng nguyện… Bóng mẹ chợt hiện mờ ảo, áo tím và chuỗi ngọc xanh một ngày đầu năm, thanh bình, êm ả như chưa bao giờ tất bật một giây. Hằng năm vẫn cốt cách ấy vào ngày đầu xuân, tuồng như mọi hối hả gian nan chỉ thuộc về quá khứ… Từ giã và cám ơn sư cô Diệu Ý đã dẫn đường, tôi đạp xe trở về.
Ngày ba mươi trời tối nhanh. “Con đường Nam Giao thẳng mà không bằng”, một buổi hoàng hôn nào nhà thơ Xuân Diệu đã đi trên đường này… Những cây thông sẫm đen đứng trong khuôn viên Ðàn Nam Giao rối tóc trầm mặc như đang gọi hồn những vị vua về tế cáo trời đất, một thời vang bóng…Từ thành quách lăng tẩm mơ hồ vẳng tiếng loa xưa…
Tôi không đạp vội vã như lúc đi, thong thả để xe lăn xuống dốc và kìm bánh xe như muốn làm chậm lại nhịp thời gian. Trong bóng chiều cuối năm, thật là cô đơn khi đi trên con đường quá khứ… Mọi đợi chờ ham muốn làm nhạc trưởng điều khiển một buổi Tết huy hoàng mà tôi đã nung nấu trong chuyến máy bay đến Huế cũng như mọi ước mơ làm kẻ tham dự ồn ào một đêm giao thừa hoành tráng nơi căn nhà cũ đều rơi rụng… tôi thấy mình đang đạp xe dấn sâu vào nỗi trơ trọi… Cảm giác khó tả của một người lạ trên những con đường một thời quen thuộc, tiếng guốc khua rộn trên quãng đường học trò Ðồng Khánh Quốc Học còn vang đâu đây, cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp… bơ vơ cho đến thế này thì thôi…
12 giờ kém 20, tôi đạp xe về nhà mẹ cúng giao thừa
Khi dắt chiếc xe đạp ra đường, phố đã vắng tanh, đèn đường lung linh trong mưa bụi. Hình như chỉ vào đêm, Huế mới hiện nguyên hình vẻ đẹp hài hòa của một thủ đô thanh lịch, còn mang nề nếp ngăn nắp trật tự chứ không bát nháo hỗn loạn như ban ngày. Nỗi tĩnh lặng chạy dài lạnh lẽo trên đường phố hiu hắt.
Chỉ còn một chị quét đường trùm khăn đang ngồi nghỉ mệt trên vệ đường, trong gió lạnh. Tôi giật thót ngỡ thấy bóng của chính mình, chỉ khác, tôi đang mặc chiếc áo dài lướt thướt, còn chị thì quần đen áo choàng đùm đụp, mặt khuất dưới nón. Tôi hỏi từ bên ni đường như hỏi một người đã quen từ lâu: “răng chưa về nhà để cúng Giao thừa rứa?”. Chị chỉ cười. Tôi đến gần chị, cảm giác gần gũi như gặp một người quen, nói lời chúc tết và lì xì đầu năm cho chị “lấy hên năm mới!”, rồi lên xe… đạp. Ngoái lui thấy cái nón ngước nhìn theo, tự nhiên lòng bớt đi chút cô quạnh, được có người theo mình chia cảnh tịch mịch của đêm 30.
Con phố im lìm, cả lũ chó thường ồn ào cắn nhau trong xóm cũng lỉnh mất ở xó xỉnh nào, tiếng radio thường quấy động ầm ĩ khu phố tắt nghỉn từ lâu. Tôi đạp xe lững thững, nuôi cảm giác phiêu lưu của kẻ lang thang một mình nơi thành phố… lạ, trên chính con đường mà mình rất quen, đã thuộc lòng từng tấc đất từ thuở còn cắp sách đến trường tiểu học… Lần đầu tiên tôi chứng kiến cảnh tượng cúng Giao thừa trên đường phố bên cạnh con sông nhánh của Hương Giang. Không biết đây là một tục lệ mới hay vì thuở nhỏ tôi không được ra đường lúc đêm khuya. Trên vệ đường bỗng xuất hiện ánh đèn, nhà nhà đang lục tục bày bàn thờ nhỏ cáo trời đất trong phút “tống cựu nghinh tân”.
Tôi ghé xe nhìn kỹ. Ðó là những chiếc bàn con với bát hương, đèn cầy, đèn dầu, giấy tiền giấy bạc, xôi chè, bánh cúng, hoa quả. Gương mặt của những chủ nhà đầy vẻ trầm mặc và cung kính. Có người đã bắt đầu hành lễ, sụp lạy hướng về phía đường và khấn vái đất trời. Cùng một lúc, dưới vạn đò cũng nổi đèn cúng giao thừa, ánh sáng chập chờn từ thuyền này sang thuyền khác kết thành một giải hoa lửa lơ lửng trên không.
Tôi đi giữa hai vùng ánh sáng, mưa bụi như sa mù phả trước mặt, tưởng như mình đang phiêu bồng vào trong một thế giới huyền hoặc, bí nhiệm nào khác. Con đường đàng trước ẩn hiện như một thâm cung cuốn hút hai bánh xe bằng một thứ ảo thuật thôi miên, khiến chúng lăn đi mà không cần có tôi điều khiển. Tuồng như cảm giác ma hoặc này vẫn thường xảy ra trong những giây phút cuối cùng của một năm, nửa giây giữa cũ và mới, cái cảm giác đi như “ma trơi” đêm 30 tết trước giờ hoàng đạo… cứ thế mà đi mà bay trượt vào nơi vô định, hết ngõ thoái lui…
Chuông trống chùa Phước Ðiền đổ liên hồi bát nhã, khi tôi bước vào nhà. Cậu em đã chuẩn bị tươm tất bàn thờ cáo trời đất nơi sân trong. Lễ trời đất xong đến lễ tổ tiên. Tôi ngồi trên chiếc chiếu trải trước bàn thờ trong căn nhà cũ đầy kỷ niệm với những người thân yêu, nay phần lớn chỉ còn là di ảnh trên bàn thờ. Bao nhiêu ngày tháng chung nhau nay đã thành kẻ được thờ trên, người ngồi dưới chiếu. Có nỗi ngậm ngùi nào hơn?
Ðiều kỳ lạ là đáng lẽ phải thật là buồn trong hoàn cảnh ấy, tôi lại cảm thấy chút chi gần như là hạnh phúc chính trong giây phút được xem là thiêng liêng nhất của năm mới: may được ngồi đó, trong căn nhà của mẹ, với người em. Bởi vì tôi biết, nếu giờ này bên trời Ðức, tôi lại bồi hồi, xao xuyến, lại nhớ ray rức những kỷ niệm ngày Tết năm xưa… lại nhớ hồi chuông chùa Phước Ðiền bên cạnh nhà. Tiếng chuông tôi đang lắng nghe nơi đây, bây giờ, với tâm an bình, phúc lạc.
Sau phút yên lặng tuyệt đối, nghe ngoài đường xe Honda chạy rầm rập, thanh niên chở nhau đi xem pháo bông ở cầu Trường Tiền trở về nhà, kháo chuyện ầm ĩ. Tôi dắt xe ra cửa, khi các gia đình bắt đầu đốt vàng mã. Phố Bạch Ðằng xưa nổi tiếng sung túc vì nhà quan và nhà buôn gần cảng Bao Vinh, nay thanh bạch, ấp ủ những khấn nguyện đầu năm với “thoi vàng gió rắc tro tiền giấy bay” trong gió khuya lạnh căm.
Vui như Tết
Nghe nói năm nay xuất hành về hướng tây nam tốt, hướng cầu Gia Hội, ghì guidon đang loạng choạng chưa vững, tôi đi về hướng ấy, cầu may. Ði ngang qua chùa Diệu Ðế, thấy cửa còn mở, khách thập phương vãng chùa cầu phước không còn ai. Ðạp xe quá chùa một quãng ngắn, tôi bỗng quày xe trở lại chùa, xuống bộ dắt qua cửa Tam quan.
Từ cổng đến chánh điện, lá bàng lác đác trên con đường lát gạch đỏ. Chùa Diệu Ðế có hai dãy cây bàng lâu năm, mùa đông lá đỏ rực rỡ, cuối đường là hai cây nhãn cổ thụ, cảnh sơ thái, thiền nhã. Chánh điện được trang hoàng khiêm cung, vừa đủ đạo vị đón xuân. Thầy Trụ trì không ngờ có vị khách… cuối cùng mà cũng là đầu tiên đến vãng chùa trong đêm khuya, vội trở vào liêu choàng áo lễ ra tiếp. Tôi nhớ mẹ tôi rất thân với Hoà Thượng trụ trì, đã quá cố từ lâu, ngày đầu năm mẹ thường dẫn tôi đến chùa lạy Phật. 9 tiếng chuông đánh bong, 9 lần sụp lạy! Mẹ thường vừa lạy vừa nhắc nhủ con bé ngày xưa như thế.
Tôi lạy Phật với cảm giác bên tôi mẹ cũng đang thành kính đảnh lễ, chân thành, ấm áp. Không gian quen thuộc, nhu hòa của điện Phật xoa dịu những căng thẳng còn sót lại của buổi Giao thừa, ánh sáng dịu êm từ tượng Phật tỏa xuống, mùi hương hoa phảng phất nhẹ nhàng bao quanh làm cho thần kinh thư giãn bất ngờ, đến nỗi đáng lẽ đứng lên cáo từ sau khi lạy và cúng dường phước sương, tôi lại xin phép Thầy cho ngồi lại, xếp bằng, nhắm mắt.
Tôi muốn dành vài phút cho riêng mình trong ngày mồng một đầu năm, lắng mình, nghe rõ giác quan đang va chạm với vũ trụ mới tinh, ngay bây giờ, ngồi ở đây, trên đất “nhà”, ở Huế…
Ngồi yên mới thấy mình là chân đi. Từ khi về đây, Sài Gòn – Hà Nội – Huế, vù đi vù đến không ngừng, đến nỗi vòng chân xếp bằng bán già thoạt tiên chưa quen thiếu điều bật tung, hất thân xiêu đảo. Sự dừng lại của cơ thể bỗng chốc trần trụi va vào cảm giác cô đơn, chơ vơ trong cõi đời. Một chút nhói tim, một chút tê chân, một chút tủi thân…
Ðiểm rốt cùng của ý thức là sự chạm mặt với chính mình, sau tất cả đoàn viên hay vĩnh biệt nhân quần. Cảm nhận trỗi dậy đồng thời với sự rũ bỏ những hoài niệm và ước vọng đã lẽo đẽo theo tôi từ phương xa mang về đến tận nơi đây, khi nhận ra sự “qua đi” hầu như là định luật, và mỗi “bắt đầu” nhập mật hồn nhiên như hơi thở.
Có lẽ mỗi sự bắt đầu, mỗi cái mới tinh khôi đòi “cô đơn” tuyệt đối để trở nên “mới”, phải trút bỏ hết những gì thuộc quá khứ qua nghi lễ của một cuộc tắm gội tất niên – bao nhiêu cáu ghét năm cũ xả hết như bà nội tôi thường cẩn thận thực hành vào một giờ lành cuối năm – thì “mới” mới là… mới tinh và cuộc bắt đầu mới tràn đầy sức sống.
Cuộc đi từ năm cũ sang năm mới ngắn ngủi có một quãng đường, nhưng dài, bằng hai năm. Còn dài hơn thế nữa, nó xuyên suốt tuổi thơ cho đến giờ khắc ấy, cả gánh hành trang quá khứ từ khi xa xứ cho đến khi trở về, kềnh càng đầy ham muốn và ảo tưởng, bỗng chốc trút đi nhẹ bổng, mọi tất bật lao đao dừng lại. Hơi ấm hiền lành trong chánh điện và khí lạnh tinh sương khuya đầu xuân chạm nhẹ bờ vai như vỗ về. Cảm giác cô đơn trong giây phút tĩnh mặc thật lạ lùng: nó đem đến sự vững tâm ngay sau khi con tim vừa giật mình ngộ được phù du, như một người soi gương nhận ra thời gian đang đậu trên mái tóc, chợt mỉm cười thương hại vẻ hoảng hốt của chính mình trong gương. Ừ thì cô đơn… mà cũng không cô đơn đến nỗi!
Khi tôi mở mắt, bỗng có tiếng reo: “A, cô Kim Lan, A Di Ðà Phật!”. Lấp ló hai vị sư trẻ vừa từ trong liêu bước ra chánh điện, có lẽ để xem vị thí chủ quái dị nào đang ngồi thiền (mà nghĩ vẩn vơ!) khuya khoắc như thế. Khi thấy tôi, họ cười hớn hở. Còn ngỡ ngàng tối sáng, hai Thầy đã hoan hỉ tự giới thiệu là tăng sinh khoá II của Học Viện Phật học, nơi tôi được mời giảng dạy mỗi khi về Huế.
Ui chao chi lạ! Thật không có niềm vui nào bằng. Bất ngờ nhà Sư và đệ tử, thầy trò gặp nhau! Ðối với tôi nỗi mừng còn hơn thế nữa, nó mang hương vị đặc biệt của “tha hương (tôi có “xa nhà“ không nhỉ?) ngộ cố tri”. Câu chuyện đầu năm như nhúm lửa xua tan mọi điều tủi thân còn lưu lại của cảm giác cô đơn. Khi ra về, quí Thầy còn đem hai đòn bánh tét, bánh chưng và sách Phật học làm quà đầu năm.
Tôi hỉ hả như một đứa trẻ được cho món quà đúng ý. Nỗi hí hửng được quà Tết này e còn hơn nỗi hí hửng của con bé được áo mới năm nào. Ôm bánh về nhà, tôi gọi điện cho con hỏi thăm bên nớ ăn Tết ra răng. Con tôi bảo:
“Bên ni dì Y. cậu L. mợ T. đang gói bánh chưng, Mạ nờ!”
“Rứa là Huế thua Munich cái nồi bánh chưng đêm 30!”
Ngẩn ngơ một chút vì hơi lạnh của đêm Tết Huế, nhưng vui khi nghĩ đến cái bếp Giao thừa bên trời tây mỗi năm tôi đã nhen cho bà con, nay vẫn còn đỏ lửa, lại thêm hí hửng vì không nấu mà có bánh đầu năm như một phép mầu, tôi đi ngủ trong niềm “vui như Tết” ấy.
Ăn Tết
Sáng mồng một Tết. Không nghe tiếng pháo mừng xuân, không có tiếng trẻ chúc mừng năm mới, cũng chưa có người đến “đạp đất” xông nhà, tôi nghĩ đầu năm mình phải tìm gặp “người hiền” theo tích xưa. Tôi gọi điện chúc Tết và mừng tuổi ôn Bổn sư của con tôi, kể cho Ôn nghe chuyện tôi được quà quí vào giờ đầu năm. Nghe như Ôn cũng đang vui với con cháu. Gặp Tăng xong thì đến người tục. Một trong những “người hiền” tôi gọi để chúc Tết là anh Lợi nguyên giáo sư trường Bồ Ðề, năm nay đã hơn 70 mà Phật sự không bao giờ dừng.
Giọng anh lúc mô cũng thiệt như đếm, không rườm rà bánh mứt ba ngày Tết:
“Nì, có muốn vô coai (coi) cây mai nhà tôi nở đúng ngày mồng một Tết không thì vô!”
“Ô, ô, thiệt không anh Lợi? Chi chơ coai mai thì xin vô liền, anh Lợi nợ.” Tôi ứng khẩu láu táu.
“Cả năm chỉ một lần mai nở. Không đến thăm, bơ nợ suốt đời!”
Nhà anh Lợi ở phía sau hồ Tịnh Tâm, từ cửa Thượng Tứ vào cũng tiện đường cho tôi định sửa soạn lên Linh Mụ cúng nhà thờ và đi thăm mộ. Lạnh thế này mà mai nhà anh nở được, thì chắc anh có phép thần, phải vào xem ngay. Vườn nhà anh chỉ trồng mai, anh nổi tiếng chơi mai, nhưng không cầu kỳ như mấy ông quan cách và những nhà kinh doanh mới giàu sụ. Nghe nói các ông chơi mai “tàn bạo”, có nghĩa là mắc tiền, giá cả sôi nổi như đánh phé tháu cáy, có gốc mai lên đến hơn trăm triệu đồng, phỗng tay trên cả những tay chơi Hà Thành. Nhưng năm nay trời quá lạnh, mai tịt ngòi, chẳng chịu nở. Vậy mà kẻ chơi mai lãng tử lại được MAI KHAI ngày mồng một, thế có phải là “ngũ hường đoạt tam khôi” (1) không chứ?
Trời xuống mưa phùn như không bao giờ sai hẹn đầu năm. Mưa mang hơi xuân về đuổi bớt cái lạnh nhức xương của Huế, nhưng trời chưa ấm hẳn. Như một mệ đời xưa, tôi mặc hai cái áo dài mà người Huế gọi là áo cặp, trong là bốn lớp áo cụt lụa để chống cái lạnh thấu xương, choàng thêm cái khăn, tôi lên xe đạp qua dốc cầu Gia Hội, chạy qua đường Trần Hưng Ðạo, quá cầu Trường Tiền, rồi thay vì đạp thẳng lên hướng Kim Long, tôi rẽ vào cửa Thượng Tứ, háo hức đi xem mai khai nguyên đán, bất kể thiên hạ quay nhìn vì cái mốt năm mới kỳ lạ của tôi, áo dài xưa ngồi trên xe mà đạp bon bon…
Ðến nơi, anh chị Lợi đón ở cổng, chưa kịp chào chúc tết, anh Lợi nói liền: “Lên gác xem mai!”.
Sàn gác lót bằng gỗ nhãn ửng hồng ấm cả chân, cửa bàng khoa (cửa xếp) gỗ mun đen mở ra khung trời bãng lãng màu nhũ bạc, làm phông cho cành lá xanh non phơi phới, từ đó xuất hiện những đóa mai vàng còn ngỡ ngàng ý xuân, như chưa muốn nhận là diễm tuyệt, vì đang là diễm ảo, đang là vàng mơ, đang là mai… khôi…
Ngắm hoa mai trong buổi sớm mùa xuân mới biết được mối hận Ðường thi dài vô tận của Lâm Bô là dường nào:
Ngâm hoài trường hận phụ phương thời
Vi kiến mai hoa triếp nhập thi… (2)
Ðến ngưỡng cửa trời mai ấy thì thi ca dừng lại, nhà thơ dừng lại, ân hận phụ tình hoa, băn khoăn là rơm là rác trước “lồ lộ chân như”, trong lúc thiền sư chứng ngộ, nhập thần với hoa.
Anh Lợi đáng được gọi là Mai Phật vì anh vui mai mà tự tại, hồn nhiên, chơn chất. Anh đánh thức tôi ra khỏi mối hận ấy bằng cái gậy Thiền “gánh nước, giã gạo”:
“Chừ trưa rồi tui đoái (đói), phải ăn cơm. Bữa ni ăn chay đó nghe. Kim Lan muốn ăn cho vui không?”
Tôi ngần ngừ sợ trễ giờ lên nhà thờ, anh bảo tiếp:
“Cơm không có chi cả, ăn với dưa cải chấm xì dầu.” Anh vừa nói vừa xới cho tôi chén cơm, không cho cáo lui.
Tôi định ăn một chén cho vui, ngờ đâu ngon quá, lại xin anh thêm một chén, rồi lại chìa bát đã và nhẵn sạch không còn hạt cơm nào, xin anh thêm nửa chén nữa với mấy miếng dưa. Nhớ lời bà nội: “Ăn chay ngày mồng một Tết bằng ăn chay cho cả năm”… Ðối với tôi buổi cơm ấy bằng mười năm, không phải vì tôi trốn ăn chay thích ăn mặn, ních một bụng bù cho cả năm. Không! Bữa cơm hôm đó làm cho tôi hiểu được nụ cười của tượng Phật Di Lặc ở chùa Thiên Mụ thân thiết thuở ấu thời.
Niềm vui Di Lặc vươn vai, xoa bụng!
Thưởng mai, ăn cơm nhà anh chị Lợi, vốn không có trong chương trình của tôi, ấy thế mà cuộc thưởng xuân bất ngờ ấy thật đúng là ĂN TẾT! (3)
Hu thị thị…
Rời nhà anh chị Lợi, tôi đạp xe ra cửa Thượng Tứ, đi hướng Phú Văn Lâu, băng đường rầy xe lửa qua cầu Bạch Hổ, thẳng lên Linh Mụ. Con đường từ cầu đến Linh Mụ đối với tôi thân quen như bụng mẹ, nhưng Tết này bỗng dưng khác hẳn. Thay vì khập khiểng, gập ghềnh, đáng thương độ nào, nó được mở rộng toang hoác như xa lộ, đường nhựa mới đổ láng bon, chiếc xe đạp của tôi ngỡ ngàng trên nền mới, cứ chạy ngoằn ngoèo qua lại như mất trớn.
Nhà cửa bên phía bờ sông giải tỏa, thấy trống trải cảnh sông nước. Những cây dừa cao chải gió, những giàn mướp, dâm bụt, những bụi dứa gai, mâm xôi, hoa ngũ sắc thường mọc dại sum sê xanh mướt bốn mùa – rất thân thương của thời bé dại – đã bị đốn sạch. Biền bắp biền lúa cũng chung số phận nhường cho dự án cải tạo công viên bên bờ sông. Cây cối vừa trồng trên giải đất bồi còn thưa lưa, chưa ra hồn ra dáng.
Không biết bàn tay của nhân viên cây trồng thành phố có ân cần chăm chỉ bằng tay trời đã mấy nghìn năm thông thuộc gió mưa, sông nước, mãi hoài chan chứa cho bờ sông cảnh nên thơ mộc mạc, rất đỗi tài hoa mà vô cùng tế nhị, dìm bớt vẻ kiêu sang của những khuôn viên phủ đệ ông hoàng bà chúa một thời xênh xang võng lọng tọa lạc bên kia đường! Sự hài hòa giữa người và cảnh làm cho con đường Hà Khê trở nên thiên hạ diễm tuyệt một thời, nơi thủ phủ đầu tiên của chúa Nguyễn từ khi chúa Nguyễn Hoàng dừng chân trên đồi Thiên Mụ:
Kim Liên ơi hỡi Kim Liên,
Ðẩy xe cho chị qua miền Hà Khê,
Hà Khê nước chảy đường nghê
Chim kêu vượn hú bốn bề nước non.
Nguyễn Ðình Chiểu đã mê mẩn “đường nghê” có lẽ sau khi từ Quảng ra Huế đi thi…
Giàu sang tột đỉnh mà đớn đau cũng tột cùng, quãng đường thân thuộc ấy! Có lúc tôi đã thù nó vì đau, lại có lúc thương nó vô cùng vì nhớ. Ai ở trên con đường này đều đã từng gặp ác quỉ và mỹ nhân, đã thù nhau tận mạng mà yêu nhau tận đời. Ði trên con đường này thì… phải đạp nhanh, để đừng chảy nước mắt.
Con đường mới không gập ghềnh mà lòng cứ dần dà khúc khuỷu, bi ai. Phủ Ðoan Quốc Công chỉ còn trơ vòm cổng mái chóp rêu phong, ủ rũ như một ông già đội nón lá ngồi mãi nên vẹo người một bên. Phía trong phủ một phần đã bị quốc hữu thành Nam Châu hội quán, tiệm ăn và tửu (bia) lâu, một phần làm bãi đậu xe vận tải.
Chợ Kim Long bỗng co rúm lại thành một nhúm xác xơ, thốc thếch hàng quán như một lũ ăn mày trước cái đại lộ phồng to bất ngờ. Ngày xưa bốn cái cột sành làm cổng uy nghi đường bệ thế ấy mà hôm nay đứng chõng gọng giơ que! Ngày Tết chợ Kim Long đã là nơi vui chơi thanh lịch một thời: bài chòi, hát bội náo nhiệt cả một góc trời, áo xanh áo đỏ trên con đường rợp bóng tre, phấp phới như những tiếng reo vui, xác pháo đỏ rải con đường phủ đất bụi phù sa… Ngày Tết ra ngõ là vui – bà nội thường bảo 3 ngày Tết mặt mày nên tươi tắn, chào nhau ròn rã – đàng xa đã thấy nụ cười người đi tới, rứa là hên, là vui. Nhất là tiếng xôn xao của người người tụm lại đâu đó trên vệ đường, xúm xít quanh bàn bài vụ… nhứt lục… bầu cua cá cọp… Người lớn và trẻ con châu đầu vào nhau, chăm bẳm dán mắt trên những heo đen trâu xanh voi trắng ngựa hồng ếch vàng, cá bạc, tôm hồng, rùa xanh của bàn bài vụ với cái chén úp dấu con vụ đang xoay…
Tôi mê bài vụ trong những ngày Tết và thương luôn cả con heo ễnh bụng, con voi trắng ngà, cả con ngựa hồng phi nước kiệu, mang chúng vào trong giấc ngủ đến cả bên phương trời Tây… Nay còn đâu? Thay vào đó những chiếc xe Toyota chở du khách khệnh khạng vụt qua, hay từng toán Honda đi thăm chùa rần rật tung bụi mù mịt, như chế diễu người đi xe đạp. Người tản bộ trên đường lác đác.
Huế nổi tiếng văn hoá vườn cũng bởi con đường Hà Khê với vườn tược nằm trên một hành lang đắp cao hơn mặt đường và sông. Những khu vườn rộng thoáng, được bao quanh bằng hàng chè tàu hay tre xanh. Mỗi mảnh vườn là một tiểu vũ trụ bao gồm những sưu tập nhiều vô tình hơn hữu ý về hoa trái cây cỏ. Năm tháng tình cờ, gió, nước đem hạt giống, cây giống và phù sa, được con người phụ họa gầy dựng nên, theo cái đạo tùy thời và cái tâm vô lượng. Khế đứng bên vải, vải bên nhãn, trần bì đứng chung với chùm kết, bồng quân chung với hồng, ổi, chôm chôm bên cạnh oanh trảo, ngọc lan, hải đường chung với mộc, giáng châu với vú sữa… không phân biệt.
Ngày nay mười vườn thì hết chín bị chia năm xẻ bảy, phần thì bị xã tịch thu quốc hữu hoá, phần bị dân lấn chiếm, thành ra manh mún. Nhà cửa xây lổn ngổn làm giảm đi vẻ quí phái kín đáo của con đường nổi tiếng đẹp nhất bên bờ sông Hương đến chùa Linh Mụ, Văn Thánh, Võ Thánh.
Ngang qua đình làng Xuân Hòa, một trong những ngôi đình lớn của Huế, thấy hai cây bàng hai bên lá đỏ thắm. Màu đỏ càng đỏ hơn với cờ đào và giải biểu ngữ cũng màu đỏ với hàng chữ màu vàng: “Mừng Đảng, mừng xuân”. Khẩu hiệu này từ khi về ăn Tết đi đâu cũng thấy, ở Hà Nội rồi đến Sài Gòn, dưới phố Huế cũng nhan nhản bích chương “Mừng Đảng, mừng xuân”, đôi khi còn thêm mấy chữ “mừng thắng lợi”.
Ðôi chân tôi vừa đạp vừa thắc mắc: xuân của đất trời, của vũ trụ nhân sinh, không riêng chi cho ai, xuân đến thì tỉ tỉ nhà, tỉ tỉ người mừng, hồn nhiên, tự nhiên không ai bắt buộc, mắc chi phải mừng Đảng trước rồi mừng xuân sau? Nếu không muốn mừng Đảng thì có được mừng xuân không nhỉ? Hay sẽ bị số phận của hoa mẫu đơn đen? Ngôi đình vắng hoe trong ngày Tết, chắc lễ mừng đã xảy ra từ sáng sớm, tại tôi ham ăn nhà anh Lợi, tiếc không xem lễ Ðình Xuân Hòa mừng xuân cho biết.
Ði ngang qua chùa Từ Ân rồi chùa ông Nghệ, rồi đến nhà thờ gia tộc, xe tôi cũng đạp qua mau. Tôi muốn đi thăm mộ trước rồi ghé nhà thờ tổ tiên lâu hơn. Sau vườn trồng hoa lài của ông Trợ Vấn dưới chân chùa Linh Mụ – ngày nay thành nơi bán hàng lưu niệm và bãi đổ xe náo nhiệt – có ngõ dốc quanh chùa dẫn đến nơi mộ chí. Tôi xuống xe, ghé cái quán nhỏ mua hương và diêm. Quán đã có từ khi tôi đi học – mỗi lần theo mẹ lên thăm mộ Ba sau đó được ăn bánh bèo ngon chùa Linh Mụ – nay ở đây mọc lên hơn mấy chục quán khác bán đủ thứ linh tinh, như một cái chợ con.
Ðang mua nhang, bỗng nghe mùi thơm ngào ngạt và tiếng mời cô mua “mì xưa!” Bên cạnh tôi, một mệ già ngồi trên đòn gánh, giữa hai chiếc gióng với rổ khoai lang, khoai từ, sắn, củ môn, huỳnh tinh, đậu phụng tươi bốc hơi nóng, cọng thêm một mùi hương mà khứu giác tôi khi chạm đến đã nhảy dựng lên, dáo dác kiếm tìm: ôi chao! những trái thị tươi màu vàng còn cuống lá xanh lục đậm, tươi rói nằm trên lá chuối rổ bên kia.
Tim tôi đập rộn hình ảnh tuổi thơ, được mẹ mua cho trái thị ở chợ quê, dấu quả thị trong áo, bồng bềnh cả ngày trong mùi thơm lạ lùng, vừa nồng vừa mộng mị huyền thoại, đôi khi sực nhớ lại lấy ra dí mũi vào hít. Bà nội tôi thường cấm không cho cầm chơi trái thị, sợ bị ma hành, thôi miên. Mùi thơm của nó có ma lực hóa kiếp nàng Tấm, hay cám dỗ cả ông thần Hát Bội làm cho ông ngây ngất, tuyệt ngôn… Trái thị, Tấm Cám, bà nội tôi, cả tuổi thơ đã rời tôi từ lâu…
Vội vàng xuống xe, tôi hỏi mệ:
“Răng ngày mồng một mà mệ lại đi làm, đi bán như ri? Ngày mồng một cử làm lụng mệ nờ!”
Tôi nhớ bà nội thường “đóng sổ” công việc chiều 30 Tết và cấm con cháu nói đến “việc làm”.
Mệ trả lời, che một chút lam lũ:
“Hôm ni tốt ngày cô nợ. Nên chi nấu khoai sắn ra đay bán may xưa!”
Tôi mua gần hết rổ khoai sắn, hai lon đậu phụng, mua luôn cả rổ trái thị. Mấy o bên cạnh thấy tôi ham trái thị, chạy đi vơ hết những nơi khác, đổ xô đến đòi bán. Bỗng chốc, e trái thị của cả làng Xuân Hòa đã chui vào túi đảy của tôi. Tôi mua hết tất trong tiếng cười dòn tan của mấy o bán hàng về vẻ lớ ngớ của tôi, còn tôi thì vui tìm được quà Tết đem vào mộ cúng Ba và chị tôi ngày đầu năm. Mệ bán sắn mừng bán được may xưa, lại lời tiền lì xì mới toanh. Có lẽ khi quảy gánh, mệ đã bỏ thêm vài trái thị vừa hái trong vườn lên rổ cho vui, nào ngờ nó làm vui thiệt. Ðúng là hương thị có sức mê hoặc đem tiếng cười cho cả người bán lẫn người mua.
Lại lễ mễ đạp xe lên dốc hẻm, lủng lẳng với những thứ “nhà quê” như thế, tôi nghĩ, Ba và chị sẽ hỉ hả cùng cười với tôi. Chị sẽ cười ái ngại, tội em ba bữa Tết không có mứt bánh ăn Tết như ngày xưa. Thời con gái đảm đang, chị đã từng làm hết món mứt này đến món mứt kia theo chỉ dẫn của bà và mẹ cho cả nhà ăn Tết.
Trái thị màu vàng óng ả đã làm cho mâm quả của tôi sáng rỡ trên những hòn sỏi, thêm vào một vài đoá ngũ sắc hái trên đường, thẩm mỹ còn hơn mâm ngũ quả mà cô em họ tôi đã giúp tôi bày ở dưới phố trong cuộc chạy đua sắm tết ngày ba mươi. Ai đời chuối ở Huế mà cũng biết leo thang, một nải chuối cau, chuối mật những gần trăm nghìn đồng. Nên nhớ người Huế không cúng chuối bà lùn, vì… sợ lùn, lún suốt cả năm trường thì khốn.
Tôi thắp nhang khấn vái lời chúc Tết. Mộ ba tôi là nơi thời con gái, chị và tôi hay đạp xe lên thắp hương rồi nhân tiện vãng cảnh chùa, nay chị về nằm bên cạnh Ba, còn tôi thì lui cui với trái thị thơm lừng cả một vùng tưởng nhớ. Có thể rơi nước mắt từng giây…
May mà ở gần chùa Linh Mụ, bao nhiêu nước mắt nhân gian đã được tiếng chuông mang đi đổ vào dòng sông nên chỉ còn cay mắt… với những đứa trẻ xóm dưới đang trố mắt nhìn. Tôi vào lạy Phật, sau khi đã chia với chúng gói khoai sắn, đậu phụng và tiền lì xì. Còn nhớ lời ôn Ðôn Hậu: “Ði mô cũng không đẹp bằng ở Huế, ở Huế không có chỗ mô đẹp hơn chùa Linh Mụ!” với nụ cười khiêm tốn về cái “siêu” mà không “siêu” nên thành “siêu” của Linh Mụ Tự.
Xuân về trên sông
Có phải từ năm cũ sang năm mới, suốt cả ngày mồng một Tết, tôi đã đi, đứng, đạp xe, làm những nghi lễ ngày Tết, loanh quanh xa gần, miên man với bao chùm liên tưởng, vòng vo né tránh, cần rần cà rà, la cà từ phố đến quê, như chưa muốn thú nhận một điều ẩn kín, tuy lòng đã chắc một hai: đi đâu rốt cùng cũng chỉ để đến điểm này: đứng trên thềm chùa Linh Mụ, nơi góc quành ngọn đồi lộng trời thiêng, NHÌN SÔNG.
Chính trong giây phút nghe sông núi tĩnh lặng từ nghìn xưa còn đó, thấy tiếng hòa ca êm ái chảy tràn trong nắng xuân chơi vơi giữa sông, nếm được vị xuân nồng đang chuồi êm trên giòng Hương, sờ được màu tinh khôi của thời gian đang rải tơ xanh trên đỉnh Kim Phụng, nhận ra “dừng lại” cũng là “đang trôi” nơi sóng nước hồn nhiên dạt dào xuân tâm vô lượng, tôi chợt tìm thấy bóng mình đã in trong lòng sông ấy từ vô thỉ vô chung.
München,
Ngày đưa ông Táo về trời 2007
(1) Ba ông trạng trong trò chơi “Ðổ xâm hường“ của người Huế trong dịp Tết: Ðổ Xâm Hường: một trò chơi ở Huế vào ngày Tết thưòng gọi là trò chơi giành Trạng nguyên (gọi là Trạng Anh), Bảng nhãn, Thám hoa (2 ông Trạng Em). Trò chơi gồm 6 hột xí ngầu (người Huế gọi là hột tào cáo), và cho 6 người chơi x 32 thẻ ( trạng anh= 32; 2 x trạng em = 16 x 2; 4 x tam hường = 8 x 4; 8 xTứ tự = 8×4;16 nhị hường x 2, 32 thẻ nhất hường). Mỗi người chơi phải đổ cho được 32 thẻ., mỗi lần trong 6 hột phải có một mặt Hường. Hường = mặt tứ của hột cáo, được sơn đỏ nên gọi là hường. Nếu đổ được 4 mặt hường là được Ông Trạng, đổ ra 5 năm hường thì được cả 3 ông trạng, gọi là NGŨ HƯỜNG ÐOẠT TAM KHÔI, người Huế cho rằng năm mới đổ được ngũ hường là vận sẽ rất hên! Ðây là một trò chơi tập thể trong gia đình vào ngày Tết.
(2) Ðường thi: Mai Hoa của Lâm Bô:
“Tìm thơ vội tả hoa mai
Giận thơ mãi vụng để hoài vẻ xinh”, Quỳnh Chi sưu tầm và dịch.
(3) Xem Thái Kim Lan “Năm nay sẽ về nhà ăn Tết”, báo xuân Tia Sáng 2006