Bài Pháp thoại đã gợi mở cho mọi người thấy được tầm quan trọng của hai dạng tâm lí trong việc xây dựng và bảo vệ sức mạnh nội tâm. Từ đó, giúp mọi người có thể kiên trì trước mọi khó khăn của cuộc đời, cũng như bình thản trước mọi nghịch cảnh để cố gắng vươn lên, thay đổi số phận của mình.
Mở đầu bài Pháp, Thượng tọa khẳng định có hai dạng tâm lí giống như mâu thuẩn nhau, nhưng đều là đạo lí cả.
Tâm lí đầu tiên là bình thản, chấp nhận khi gặp nghịch cảnh. Chấp nhận những đau khổ là một sự dũng cảm, đem đến cho ta sự bình an. Gặp đau khổ mà trốn chạy thì càng đau khổ. Đó là nguyên tắc.
Tâm lí thứ hai là ta không chấp nhận số phận nên cố gắng tạo thật nhiều công đức để vươn lên, thay đổi nó.
Đặc biệt, với một người đệ tử Phật, chấp nhận, bình thản, đối diện với nghịch cảnh là cái tâm lí phải học cho bằng được, nếu không sẽ trở nên nhu nhược, an phận, chậm tiến. Tâm lí an phận này đi ngược lại với lí tưởng tu tập, giác ngộ bởi để đạt được sự giác ngộ, ta phải phấn đấu không ngừng trong rất nhiều kiếp. Nếu không ta mãi chỉ là một phàm phu tầm thường, bị lăn trôi trong luân hồi vô tận mà thôi.
Người tu theo đạo Phật không phải là người thấp kém, bần tiện nên dù gặp khó khăn cỡ nào, họ vẫn có cái đĩnh đạt, sang trọng. Vậy nên, tâm lí chấp nhận số phận để được bình an và tâm lí không chấp nhận số phận nên cố gắng thay đổi nó là hai tâm lí trái ngược nhau. Nếu chỉ biết một bên thì tâm lí ta mất cân bằng, không đi đúng con đường của đạo Phật nữa.
Ví dụ, khi nghe thầy giảng là đệ tử Phật phải biết nỗ lực vươn lên, ta thấy rất đúng bởi vươn lên tức là thay đổi số phận. Nhưng nếu không khéo, cái nỗ lực này trở thành tham vọng và tâm lí này là tâm lí chung mà cả thế giới đang bị. Để sinh tồn, mọi người cạnh tranh, hơn thua nhau từng giờ, từng phút, không từ một thủ thuật hay thủ đoạn nào. Cho nên, trong cái sinh tồn của nhân loại, thấy là tiến bộ nhưng sự thật, con người đang chà đạp, mưu hại, vùi dập nhau để đi lên. Nếu không có Phật pháp thì cách ta cầu tiến cũng sẽ trở nên xấu xa như vậy.
Nói tu theo đạo Phật là phải buông bỏ, bình thản, chấp nhận, không ham muốn, không cầu mong để tâm được bình an là ta đang kéo cả xã hội này chìm đứng lại trong nghèo hèn, lười biếng. Khi đất nước không tiến bộ, không có sức mạnh về kinh tế thì kinh tế và chính trị cũng suy yếu theo. Hệ quả, phải lệ thuộc một nước mạnh hơn, thậm chí bị xâm chiếm một cách ngầm hoặc công khai. Nguyên nhân cũng bởi hiểu lầm giáo lí của Phật và nó cũng là một cái cực đoan ngược lại.
Muốn tránh điều đó, người đệ tử Phật phải hiểu rõ hai mặt đối lập này để quân bình được tâm lí, thái độ sống của mình. Sau đó, hướng dẫn lại cho mọi người xung quanh, đây là con đường trung đạo. Tức là ta sống lợi ích cho mình rồi ta còn làm lợi cho người khác. Thế nên, bài Pháp này là một vấn đề tế nhị nhưng sâu sắc, cần thiết.
Để mọi người hiểu rõ hơn về hai dạng tâm lí này cũng như mối quan hệ của chúng, Thượng tọa đã phân tích từng tâm lí một. Đầu tiên là giáo lí chấp nhận số phận. Người giải thích, chấp nhận số phận để được gọi là không tham, để có thể nhẫn nhục trước những đau khổ và sự xúc phạm của người khác mà không hờn giận, sân si, thì ta đạt đến một cảnh giới mới. Phải là người tu tập có đạo lực, có sức mạnh ghê gớm mới đạt được cảnh giới này. Đây là điều cực kì cần thiết và cũng là mục tiêu phấn đấu của người đệ tử Phật.
Thật vậy, đệ tử Phật phải tập cho được cái bản lĩnh, cái đạo lực này để có thể bình thản, im lặng trước nghịch cảnh giống như bậc Thánh, chứ không phải một ông trùm xã hội đen. Hai người này dù im lặng giống nhau nhưng sức mạnh, sự bình thản lại khác nhau rất lớn. Sức mạnh ở đây chính là sức mạnh nội tâm để giữ được sự bình thản trong tâm hồn. Nó là một sự hư vô, khác hoàn toàn với sức mạnh cơ bắp, phải gồng mình và căng cơ lên. Một đời theo Phật là ta phải tập giữ cho tâm mình hư vô, bởi đó chính là sức mạnh của nội tâm.
Thêm nữa, muốn có sức mạnh nội tâm ta phải siêng năng ngồi thiền. Người tĩnh tâm ngồi thiền được là đỉnh cao. Còn ban đầu, ta chưa làm được điều đó thì trước hết phải sống đừng vị kỉ, tập sống vị tha trong từng suy nghĩ, trong từng ứng xử nho nhỏ với mọi người. Dần dần, tự nhiên ta có sức mạnh, bắt đầu có khả năng giữ được sự bình thản khi đối diện với nghịch cảnh.
Trước đây, ta không tinh tế vì mãi nghĩ về mình, chỉ biết yêu thương bản thân. Giờ học theo Phật, ta xoay ngược lại, buông bỏ cái ích kỉ cá nhân, tự nhiên mọi người sẽ hiện ra trước mắt để ta yêu thương, tử tế, đó cũng là cách rèn luyện sức mạnh nội tâm. Khi gặp nghịch cảnh, bỗng nhiên ta thanh thản hơn trước. Còn để bình thản hoàn toàn thì phải chứng thiền định.
Ngoài ra, ta phải biết lễ Phật nhiều, biết lao động chân tay, làm nhiều việc thiện, giúp đỡ mọi người. Những điều phúc này làm cho tinh thần ta mạnh lên, suy nghĩ bắt đầu chín chắn, bớt hời hợt và nông cạn.
Có thể thấy rõ điều này khi nhìn vào mỗi con người. Ta thấy có người đẹp bên ngoài nhưng nội tâm lại yếu đuối. Đó là do kiếp trước họ tạo phước nên đời này được cái đẹp. Nhưng lối sống không đủ chiều sâu, không vất vả để giúp đỡ người khác nên đời nay tự nhiên hời hợt, nông cạn. Còn những người đẹp cả hình thức và tâm hồn là nhờ họ biết đổ sức lực để tác động vào con người, đem lại lợi ích cho con người. Công đức này đánh ngược vào nội tâm, làm cho nó trở nên phong phú, sâu sắc, trí tuệ, mạnh mẽ.