Trải qua từng thời kỳ, giáo dục có những bước tiến mới và định hướng phù hợp với sự phát triển của xã hội ở thời điểm đó. Giáo dục không chỉ bó hẹp trong phạm vi đạo đức, kiến thức chuyên sâu hay giữ trọn nhân lễ nghĩa trí tín với đời, mà nó bao quát tất cả các phạm trù tương quan mật thiết với nhau này.
Trong những năm qua nền giáo dục và khoa học kỹ thuật thế giới phát triển như vũ bão: nếu như những năm 90 của thế kỷ trước, thì cứ 7 năm người ta lại thay đổi và có hướng phát triển giáo dục một lần; đến những năm 20 thì con số đã rút ngắn lại chỉ còn 5 năm; và đến những năm của thế kỷ 21 thì con số này thay đổi và dừng lại con số 2.
Qua đó chứng minh một điều rằng xã hội phát triển, khoa học tiến bộ dẫn đến các ứng dụng trong giáo dục phải thay đổi theo. Tuy nhiên thay đổi theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.
Công nghệ tiên tiến của thế giới đang trên đà phát triển không ngừng, nhu cầu xã hội tăng cao, dịch vụ phát triển rộng rãi, người ta không còn chú ý tới số lượng mà thay vào đó là chất lượng. Muốn có cuộc sống bình ổn, thì mỗi người phải tự trang bị cho mình một khối lượng tri thức vừa đủ để cảm nhận cái hay cái tốt đẹp, vậy tri thức ấy ở đâu mà có? Nó ở ngay cạnh ta, bất cứ nơi nào ta đến. Nó không chỉ có trên giảng đường đại học hay trong các học viện v.v… mà nó là sự tổng hợp của cả một xã hội thu nhỏ, khi ta biết mở cánh cửa tâm hồn đón nhận thế giới xung quanh.
Các nhà nghiên cứu giáo dục nhận định rằng: chưa bao giờ đạo đức con người, văn hóa xã hội lại xuống cấp trầm trọng như thế kỷ 21, nó lan tràn khắp mọi nơi. Cái gọi là sự nhẫn và nhường nhịn lẫn nhau trong xã hội dường như nó không còn tồn tại. Thay vào đó là những trận chiến bằng vũ lực hay những cuộc khẩu chiến không bao giờ có hồi kết, và đó không phải là cách thể hiện tri thức của con người sống trong thời đại tân tiến. Khi ấy người ta đã đặt ngược lại vấn đề, phải chăng xã hội phát triển quá nhanh làm cho con người không kịp thích nghi với sự thay đổi đó, dẫn đến tình trạng chắp vá kiến thức và có những suy nghĩ bồng bột nông nổi.
Việt Nam – một đất nước đang trên đà phát triển, cũng không nằm ngoài vòng xoáy đó. Một đất nước với hơn bốn ngàn năm văn hiến, có bề dày về văn hoá lịch sử, đạo đức làm người được coi trọng hàng đầu, đâu đó những quan niệm xưa ít nhiều cũng còn lưu giữ, vì vậy họ không chấp nhận việc con cháu trong gia tộc dòng họ bị tha hóa về đạo đức. Nhưng đó chỉ là trên lý thuyết, cuộc đời vẫn cứ trôi và ta thì không thể dừng lại. Nếu ai đó có đủ bản lĩnh để vững bước bước tiếp con đường mà mình đang đi, thì đó tạm gọi là người chiến thắng chính bản thân mình, nếu ai đó có chút do dự hay chần chừ lập tức sẽ bị cuốn theo những cơn lốc xoáy vô định.
Đổi mới là quy luật tất yếu nhưng đổi mới như thế nào, đổi mới ra sao, điều đó được xem như một bài toán khó. Chúng ta không chỉ mãi hô hào bằng những khẩu hiệu, mà hãy hợp thức hóa bằng những hành động cụ thể, lối suy nghĩ tích cực, thái độ ứng xử có văn hóa giữa người này với người kia, giữa người với muôn vật, với thiên nhiên.
Một đất nước, một dân tộc hay một vùng miền nào đó không thể phát triển nếu như không có nền giáo dục phát triển và có những con người được đào tạo bài bản chính quy nhất. Đó là điều kiện cần nhưng chưa đủ, một thành phần xã hội không được học tại các trường lớp chính quy nhưng họ có tố chất và có tư duy nhạy bén với thời cuộc, thì tự bản thân họ cũng đang đóng góp làm tăng GDP của đất nước, góp phần làm cho nền kinh tế nước nhà phồn vinh. Ở đây ta chỉ nên hướng dẫn để nhân rộng lòng nhân ái của những người này tới mọi người, đó là một trong những hướng giáo dục tốt và hiệu quả nhất.
Trong giáo dục, vai trò người thầy thật sự quan trọng, nếu như ngày xưa cả làng trên xóm dưới, chỉ có một ông thầy đồ cho xin cái chữ, thì ngày nay cũng một ngôi làng nhưng đã có tới 5-7 người thầy. Người thầy nào cũng giỏi cũng hay, quả là khó cho đám học trò khi đưa ra quyết định nên theo học thầy nào. Và lúc này xã hội sẽ đóng vai trò là người nhận định, một người thầy không chỉ giỏi về kiến thức chuyên môn, mà họ phải còn có đạo đức nghề nghiệp, thái độ ứng xử có văn hoá, lời ăn tiếng nói chuẩn mực… ấy là điều mà học trò ở thời đại mới cần ở người thầy.
Khoa học kỹ thuật phát triển, người thầy giáo không chỉ giới hạn trong giáo án đã soạn sẵn, mà họ phải thường xuyên cập nhật thông tin làm phong phú cho bài giảng, tài liệu thầy có thì học trò cũng có, đôi lúc tài liệu tham khảo cho môn học, trò đầy đủ hơn thầy và lúc này người thầy chỉ hơn trò về kỹ năng sống và kiến thức xã hội. Một bài toán được đặt ra ở đây là làm thế nào để giữ được cái gọi là “tôn sư trọng đạo”, “muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”. Người thầy lúc này chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn và định hướng cho quá trình học tập của học trò.
Đầu tư cho giáo dục được coi là kênh đầu tư không lợi nhuận, không có tiếng vỗ tay nhiệt liệt hoan nghênh, không băng rôn hay khẩu hiệu, không có ánh đèn sân khấu lung linh huyền ảo, không có những bữa tiệc đầy nến, hoa và sâm-banh, mà thay vào đó là sự hy sinh thầm lặng cả cuộc đời, và kết quả nó mang lại không tức thời nhưng lại có sức hút lâu dài.
Nếu như 375 năm qua, đại học Harvard danh tiếng được coi là thiên đường của những giấc mơ, là nơi đào tạo ra những thiên tài phục vụ cho nhân loại, thì đến năm 2011 nó đã không còn là trường đại học duy nhất được đánh giá cao về chất lượng đào tạo, thay vào đó là sự hoán vị của những ngôi trường mới hiện đại hơn và có nhiều công trình nghiên cứu khoa học áp dụng vào thực tiễn đời sống hơn.
Giáo dục nếu như không có sự đầu tư đúng mức sẽ đi vào lối mòn, và sự thất bại sẽ gõ cửa bất kỳ lúc nào. Cũng như vậy, bức tranh giáo dục Việt Nam trong 5 năm trở lại đây đầy ảm đạm và thiếu màu sắc. Đội ngũ Giáo sư, Tiến sĩ, Thạc sĩ được coi là tinh hoa của tri thức, cũng không thể vực dậy nền giáo dục đang xuống cấp một cách trầm trọng, phải chăng chúng ta đang thiếu sót và bỏ trống ở điểm nào trong chuỗi phản ứng.
Có phải đó chính là vấn đề “tài chính”, người thầy sẽ không thể tậm tâm tận lực nếu như cái dạ dày bị đói, bị bỏ lửng. Bậc thang như cầu của Maslow đã thể hiện rất rõ, nhìn vào những bậc thang đó các nhà quản lý mới chỉ đáp ứng cho người làm công tác giáo dục ở mức độ cơ bản, còn lại những nhu cầu khác bị lãng quên, vậy thì làm sao có thể đưa giáo dục phát triển mạnh như các nước trong khu vực.
Nếu như chúng ta chú ý và quan tâm sẽ nhận thấy một điều rằng, khoảng 3 – 4 năm trở lại đây đã có sự ảnh hưởng của tín ngưỡng tôn giáo tới một phần của giáo dục Việt Nam. Nói cụ thể hơn đó chính là Phật giáo. Với một xã hội mà ở đó trình độ dân trí được nâng cao, nhưng lại tỷ lệ nghịch với văn hóa và đạo đức con người, thì Phật giáo là biện pháp và lựa chọn tối ưu cho chúng ta.
Vì giáo lý nhà Phật không chỉ là những lý thuyết suông hay những lời sáo rỗng mà là nguyên lý trường tồn qua bao thế kỷ qua, đã được ông cha ta kiểm nghiệm ứng dụng hơn 2500 năm. Ở đó ta được trở về với chính mình, tâm linh của chính mình. Những đau đớn muộn phiền khổ ải ngoài kia được hóa giải khi ta có niềm tin. Hành động bên ngoài thể hiện cái nội tâm bên trong của ta, nếu tâm ta thảnh thơi, không oán hận thì hành động sẽ trở lên nhẹ nhàng, ngôn ngữ từ ái, yêu thương mọi người, cảm nhận nỗi khổ của người khác như của chính mình. Như vậy cũng đã góp phần làm đẹp cho đời cho xã hội và khi ấy ta trở thành tấm gương cho những bạn trẻ khác noi theo, người làm giáo dục chỉ với mong muốn tìm được những con người đủ chuẩn mực đạo đức, tri thức đủ lòng bao dung rộng lượng, để hướng dẫn cho thế hệ trẻ, tránh lầm đường lạc lối vào những cạm bẫy tội lỗi.
Thời gian gần đây có một dấu hiệu khả quan là vào những ngày lễ lớn của Phật giáo các bạn trẻ đều về chùa tham dự và tu tập tìm chốn bình yên nơi tâm hồn, đó được coi là một dấu hiệu khả quan cho giáo dục Việt Nam nói chung, và đạo đức của thế hệ trẻ nói riêng. Ở chốn thiền môn họ không còn ảnh hưởng bởi những thói hư tật xấu, những trò lố làm đạo đức con người suy đồi. Họ sẽ được dạy những điều cơ bản nhất để hoàn thiện một con người có ích cho xã hội, gạt bỏ đi những tham sân si đang ngự trị trong tâm trí họ.
Giáo dục là một phạm trù khoa học trừu tượng và sâu rộng, nó không thể tách rời các hiện tượng xã hội và nó cũng không phải là một đường thẳng mà đâu đó cũng phải có những chỗ khúc khuỷu, gập ghềnh để ta biết rằng giáo dục không chỉ gói gọn trong những điều rập khuôn có sẵn. Vì đạo đức làm người, tri thức xã hội là điều kiện cần và đủ để hình thành một con người hoàn thiện trong thời đại mới. Nói – làm – đúc kết thành nguyên lý. Nghĩ kỹ nói ít tư duy nhiều, mất cả đời người để suy nghĩ nhưng lại chỉ để nói hoặc trình bày từ 3-5 phút đồng hồ. Như vậy có nghĩa là gì? Giáo dục phải đào tạo ra những con người có chiều sâu nhận thức và chiều rộng về lòng nhân ái.
Công tác giáo dục không chỉ là trách nhiệm của người làm giáo dục mà còn là trách nhiệm của xã hội, của cộng đồng của gia đình của những người làm cha làm mẹ. Giáo dục không chỉ dừng lại ở việc dạy cho con người cách sống cách hoàn thiện về kỹ năng chuyên môn mà còn dạy cho chúng ta những kỹ năng mềm và đạo đức làm người. Chỉ có đáp ứng được những yêu cầu như vậy mới xây dựng được một đất nước phồn vinh và thịnh vượng trên hai phương diện vật chất và tinh thần, nơi đó giáo dục Phật giáo đóng một vai trò rất quan trọng trong lĩnh vực nhất quán này.