Được truyền vào Việt
Nét đầu tiên của văn hóa ngôi chùa là kiến trúc. Tất cả ngôi chùa Việt
“Vạn duyên bất nhiễm thành giả tục
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan”.
(Thiền sư Huyền Quang)
Đệ tam tổ Trúc Lâm đã ghi lại những tâm thái của mình như thế khi ngắm cảnh chùa Một Cột. Ngôi Diên Hựu tự này được xây dựng năm Kỷ sửu (1049) gắn liền với giấc mộng của vua Lý Thái Tông, kiến trúc ngôi chùa mang đậm nét đặc thù kiến trúc thời Lý; đuôi mái cong, lưỡng long triều nguyệt, vững chãi trên một trụ đá như hoa sen thanh khiết vươn lên khỏi mặt hồ. Và hình ảnh bất nhiễm này đã trở thành biểu tượng của văn hóa Việt
Nét văn hóa mang tính hướng nội của ngôi chùa là nêp sống, sinh họat. Chính nếp sống giới-định-tuệ của tăng đồ đã tạo thành năng lực tự nội và mang sức ảnh hưởng lan tỏa đến xung quanh. Người xuất gia là thiền gia, sinh hoạt nhà chùa là sống thiền và cảnh chùa là cảnh thiền. Cảnh thiền môn luôn là không gian yên tĩnh, trầm mặc, linh thiêng. Sự huyền nhiệm nầy đã tác động đến những tâm hồn mê muội trong chốn trần ai, khiến người ta giật mình chiêm nghiệm về nhân tình thế thái, về thân phận con người trong giấc mộng ba sinh:
“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái
Lững lờ khe yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình
Khách thương hải giật mình trong giấc mộng”.
(
Hoặc khi nghe tiếng chuông, khách trần được gột rửa phiền não, lòng nhẹ nhàng, tự tại:
“Dạ văn Diệu đế chung thanh
Thuận an lãng nộ ngự thành pháo thôi
Giang khúc khúc, trường hồi khúc khúc
Lãng du du, dạ phục du du
Tiêu điều quán lữ tình thu…”.
(Đinh Nhật Thận)
Chính khung cảnh thiền vị, thoát tục của ngôi chùa đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của dân chúng. Bởi thế, nếp sống thuần từ đạo đức, quý chuộng hòa bình của dân tộc Việt
Nét văn hóa độc đáo của ngôi chùa được thể hiện qua cơ sở giáo dục văn hóa. Một ngôi chùa được xây dựng lên là do bá tánh đóng góp. Trong xã hội cũ chùa làng được dân làng xây cất. Do vậy, chùa là của chung và là nơi tổ chức hội họp, sinh hoạt văn hóa. Như thế ngoài chức năng tôn giáo chùa còn là cơ sở sinh hoạt văn hóa.
Trong xã hội Cổ Trung Đại Việt
Trong xã hội hiện tại, ngôi chùa vẫn đang thực hiện xứ mạng này. Ngôi chùa là nơi để quần chúng nghe giảng đạo, học hỏi nghiên cứu giáo lý và tổ chức những lớp học tình thương.
Nét đẹp văn hóa của ngôi chùa cũng được thể hiện qua các lễ hội. Có thể nói, cho đến nay chưa có tôn giáo nào có sức ảnh hưởng lớn đến các lễ hội ở Việt
Hằng năm, hàng trăm lễ hội Phật giáo được diễn ra. Ngoài những lễ hội chung như Vu Lan, Khánh Đản, ở các địa phương còn có những lễ hội đặc thù gắn liền với những danh lam. Miền
Thông thường, lễ hội gồm hai phần: Phần lễ va phần hội. Phần lễ liên quan đến nghi thức cúng tế. Đó là sự tỏ lòng thành kính, tri ân đối với đấng thiêng liêng Phật Thánh, bậc tiền hiền có nhiều công trạng. Phần hội có múa tứ linh, hát chèo hát dân ca, kể hạnh… là những hình thức mang đậm bản sắc văn hóa dân gian sinh động.
Đi hành hương, tham quan lễ hội cũng là trở về với thiên nhiên và nguồn cội tâm linh. Chẳng hạn, khách du lịch tham quan lễ hội chùa Hương có cảm tưởng như mình đang đi “phong cảnh Bụt”. Từ bến Đục vào chùa, khách hành hương thỏa lòng chiêm ngưỡng, liên tưởng đến sơn thủy hữu tình, giang sơn tú lệ gắn liền với những cái tên dân dã mà người dân mong ước: núi Mâm xôi, Con gà, Thiên trù, Cây vàng, Cây bạc, Nong tiền… Bên trong càng thêm hấp dẫn với những ngôi chùa thoát tục, động đá thiêng liêng, huyền bí với những hình tuyệt mỹ mà thiên nhiên ban tặng như Tiên sơn, Hồng sơn… đặc biệt động Hương tích (Nam thiên đệ nhất động) huyền nhiệm gắn liền với sự tích bà Chúa Ba (Bồ-tát Quan Âm) tu hành đắc đạo…
Nhìn chung các lễ hội Phật giáo gắn liền với những ngôi chùa nổi tiếng đã mang đậm và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và Phật giáo, đồng thời trở thành một phần tất yếu của đời sống tâm linh hướng thượng.
“Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông”.
Chỉ hai câu thơ, thi sĩ Huyền Không đã lột tả được sự gắn bó bất khả phân ly của ngôi chùa với dân tộc. Ngôi chùa chính là quốc hồn, quốc túy của dân tộc. Ngôi chùa đã, đang và sẽ phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và che chở bao tâm hồn con việt. Bởi thế, những ai khi xa chùa không khỏi chạnh lòng, thương nhớ khôn nguôi:
“Mai này tôi bỏ quê tôi
Bỏ trăng bỏ gió chao ôi bỏ chùa”