Hoá thân
Năm 1933 tại Tây Tạng, vị Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 13 ngồi kiết già nhập diệt. Theo truyền thống, trong khi đi tìm vị Hoá thân tiếp nối, thì mọi quyền điều hành đều do Hội Đồng Giáo Phẩm và chính quyền đảm nhiệm.
Cuộc hành trình đi tìm cho ra vị Hoá thân của Phật sống được bắt đầu từ đó; Điều quan trọng hơn hết là phải căn cứ vào những “dấu hiệu tiên tri” hướng dẫn. Những dấu hiệu nầy thường được hiện ra trên diện mạo, thể xác của vị Đạt Lai Lạt Ma vừa viên tịch. Những dấu hiệu thể hiện cho thấy: đầu của xác vị Phật sống thứ XIII “đột nhiên bí mật” quay về hướng Đông thay vì hướng Nam theo tục lệ cổ truyền của Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng. Qua những chiêm nghiệm và nghiên cứu lễ tục đã ứng với những lời “Sấm Tiên Tri” trong thời đó là: Vị lãnh đạo tinh thần mới của người Tây Tạng sinh ra ở hướng Đông. Những ứng hiện khác cũng cho thấy như vậy.
Ngay sau khi đó, những phương thức được thực hiện kín đáo tại ngôi tự viện nổi tiếng Shalu Gompa để biết thêm những chi tiết về việc tìm kiếm trong tương lai. Việc nầy thực hiện bằng hai đợt:
Đợt thứ nhất, tổ chức cầu nguyện liên tục và kết tụ những vị Lạt Ma nổi tiếng về tu trì và đạo hạnh để có thể dẫn lộ tìm hiểu nhanh chóng.
Đợt thứ hai, đưa một vị danh tăng vào cung điện Potola để nhập thiền, chiếu soi nội tâm, liên ứng Thánh thần. Kết quả cho biết thêm: Đi về hướng Đông là đúng. Đi đến vùng hồ Chos Khorgyal sẽ thu kết quả. Những cuộc ứng nghiệm kế tiếp được dẫn đạo thêm: Nơi tìm kiếm sẽ là vùng có ngôi đền ba tầng, mái ngói màu xanh lưu ly và hoàng lưu ly, bên cạnh đó có một ngôi nhà, xuyên trến đòn vông có khắc chạm nhiều họa tiết kỳ ảo, mái xanh cũng màu xanh ngọc. Như vậy, mọi điều cần biết đã rõ. Tuy nhiên, công việc đã không dễ dàng.
Một phái đoàn đủ các nhân vật nổi tiếng các ngành: triết lý, khảo cứu, ngôn ngữ, thông linh… lên đường trong vòng bí mật, để tránh những chướng ngại và phản phúc bất cứ từ đâu đến.
Đoàn người trải qua những ngày nắng thiêu đốt, đêm lạnh như cắt, những trở ngại bất thường, tuy nhiên, họ không từ nan bất cứ một khó khăn nào, quyết đi cho đến đích mới thôi.
Họ vượt qua biên giới Tây Tạng, đi vào miền đất Trung Hoa. Khi đã đến vùng ngoại ô của tỉnh
Hiểu được ý đó, nhưng vị trưỏng đoàn vẫn ung dung, cẩn trọng. Mọi người nhìn nhau không nói thêm một lời. Vị trưởng đoàn đồng ý. Khi hỏi đến tên họ, thì cậu bé cho biết tên là “Seraga” nghĩa là một vị Lạt Ma thuộc tu viện nổi tiếng Sera tại thành
Nghiên cứu về gia đình, thì được biết là họ thuộc dòng giống Tây Tạng chính thống, sống trên phần đất bị chiếm, nhưng vẫn kiên trì bảo vệ tín ngưỡng, phong tục Tây Tạng. Không còn nghi ngờ gì nữa, việc tìm ra vị Phật Hoá Thân đã thành công sau những ngày tháng ròng rã. Cậu bé đó mang tên là Tenzim Gyatso, sinh ngày 6 tháng 6 năm 1935. Công việc hoàn tất, nhưng mọi người trong phái đoàn như được chỉ thị từ trước hoàn toàn dấu kín. Họ cũng phải bỏ ra những khoản tiền không nhỏ, hối lộ viên chức địa phương, để có thể đưa vị Phật Hoá Thân trở về kinh đô Lhasa, trú ngụ tại điện Potala.
Về kinh đô Lhasa
Cho đến khi được Hội Đồng Giáo Quyền Tây Tạng loan báo về sự Hoá thân của Ngài thì bố mẹ Tenzim Gyatso đều ngạc nhiên và cho là điều may mắn,hãnh diện nhất cho dòng dõi. Về sau, ông bà đã tâm sự rằng: “Chúng tôi nín thở khi chứng kiến việc phát giác sự hoá thân của con chúng tôi. Vấn đề không giản dị vì phải qua nhiều thử thách, ấn chứng và vết tích lưu lại từvị Đạt Lai Lạt Ma thứ 13. Đã là người Tây Tạng, việc hoá thân của thần Chenrezi là điều trang trọng nhất, quý báu nhất. Phải tu bao nhiêu kiếp mới sở đắc”.
Tín đồ Lạt Ma Giáo trong tất cả tu viện cũng rất lo ngại, cho đến khi rước đức Đạt Lai Lạt Ma tái sinh về điện Potala. Đoàn rước nầy rất vĩ đại. Có đến 10.000 ngựa và lừa tham gia. Có đến 500.000 tín đồ theo sau.
Để tránh những âm mưu tấn công từ mọi phía, một đoàn dũng sĩ có tên là Khamba gồm 4.500 người, khí giới đầy đủ giữ phía trước và phía sau để hộ tống. Dân chúng Tây Tạng đón chờ hai bên đường như một hành lang trải khắp đất nước. Họ chen lấn nhau để nhìn cho rõ đức Phật sống hoá thân. Cả gia đình Ngài cũng được trọng vọng ở mức cao nhất trong việc tiếp đón nầy. Họ được nâng lên hàng “Sutsa”, là “Gia đình trọng vọng”.
Những nghi lễ, tổ chức cuộc sống của Ngài được khởi sự. Vì đức Đạt Lai Lạt Ma vừa lãnh đạo Giáo Quyền, vừa cầm đầu hệ thống chính trị, cho nên Ngài được đi vào nề nếp của một vị lãnh đạo tối cao. Ngài được khoác những chiếc áo dùng trong nghi lễ cũng như tham dự Hội Đồng Hành Chính. Đạo quân Kham luôn luôn túc trực ngày đêm quanh Cung Điện Mùa Hè để phòng mọi bất trắc. Nếp sống của Ngài được hội đồng nghi lễ chuẩn bị chu đáo. Ngài ăn bằng những chiếc đũa bằng bạc, thức ăn đựng trong những chiếc đĩa bằng vàng. Những tấm thảm lót trong mọi phòng đều bằng loại kim tuyến đặc chế. Những đồ đạc Ngài dùng đều được nhập cảng từ Trung Hoa, Ấn Độ, Miến Điện và từ Tây Phương nữa.
Tiện nghi nầy không trở ngại cho việc tu hành, mà lại còn giữ uy tín cho vị quốc trưởng. Hàng năm, Tây Tạng tổ chức những cuộc “hiến đạo” để dân chúng có thể dâng lên cho Ngài những phẩm vật quý. Phẩm vật nầy, theo Ngài, là của thần dân, nên được mang vào quốc khố của nước.
Giáo dục một vị Phật sống
Việc quan tâm hàng đầu cho một vị Phật sống 5 tuổi là giáo dục.
Vấn đề nầy được hàng giáo phẩm cao cấp hợp lực với các nhà giáo dục và cơ quan chính quyền trung ương Tây Tạng nghiên cứu, đề cử người và lập chương trình. Tại điện Potala, Ngài lên ngôi vua và bắt đầu triều đại của mình. Điện Potala là một trong những lâu đài kỳ diệu và trang trọng nhất trên thế giới. Nó nằm trên “đỉnh cao nhất của Tây Tạng” mà độ cao đã lên tột đỉnh, chính là nơi ngự trị của vị lãnh đạo tinh thần “bao toả và lan rộng” theo nghĩa của người Tây Tạng. Tại đây có một nhà nguyện được kiến tạo rất trang trọng và mỹ thuật nơi mà mỗi ngày hai lần, đức Đạt Lai Lạt Ma cầu cho quốc thái dân an.
Chương trình học tập bắt đầu. Nội dung gồm có hai phần chính: tôn giáo và chính trị. Nhưng ở Tây Tạng, Mật Giáo là quốc giáo cho nên hai chương trình thường được gộp chung lại. Một chương trình đào luyện quy mô và cam go dành cho Ngài. đây là vấn đề quyết định tài lãnh đạo của “đấng Thậm Thâm”, danh xưng để tán thán vị thế của Ngài.
Theo quy định đào tạo Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng, thì cho đến năm 18 tuổi, Ngài mới được xem là trưởng thành. Bình thường, chương trình trong một ngày của Ngài ấn định như sau: Vào buổi sáng, sau khi điểm tâm và thay áo quần, Ngài cùng với những ân sư của mình đến điện Potala để học tập. Khí hậu nơi đây lạnh ngắt, Ngài phải mặc nhiều lần áo ấm để đề kháng. Những vị giảng huấn mang cho Ngài những dụng cụ học tập cần thiết trong ngày. Ngài ngồi ở ghế cao nhất trong khi các vị thầy ngồi ở ghế dưới, theo lề lối ứng xử một vị lãnh đạo Giáo hội trong tương lai. Họ chăm chú nghe Ngài trả bài học hôm trước, xem mức tiến bộ, điều chỉnh những sai lệch, chỉ điểm thêm những vấn đề mấu chốt.
Ngài phải qua những chương trình nghiên cứu Phật Giáo và Lạt Ma Giáo. Một số thì giờ học tập giành cho việc đọc lại những văn bản tôn giáo và chính trị của 13 đời Đạt Lai Lạt Ma trước. Những văn bản được xếp theo hệ thống. Nhờ vậy, chính trị nước nầy được tiếp nối liên tục và vững chắc.
Ngoài những bài học về giáo lý chân truyền Tây Tạng, đức Đạt Lai Lạt Ma lại còn được giảng dạy nhiều môn học khác nữa như: âm nhạc, thi ca, toán học, chiêm tinh học. Những bài thơ đạo của vị Tổ Mật Tông Milarepa được nhắc nhở nhiều nhất trong việc tìm hiểu nghệ thuật diễn xướng của những Đạt Lai Lạt Ma đời trước và nay vẫn được giảng dạy tại Potala. Chuẩn bị cho việc nhậm chức chính thức của đức Đạt Lai Lạt Ma là cả một công trình nghiên cứu nhiều năm.
Hội Đồng Giáo Phẩm và Hội Đồng Chính Trị quốc Gia Tây Tạng đã tấn phong đức Đạt Lai Lạt Ma sớm, vào ngày 17 tháng 11 năm 1950, để đối phó với thời cuộc. Năm đó Ngài mới 15 tuổi.
Đêm 17 tháng 3 năm 1959 đức Đạt Lai Lạt Ma chạy về phía nam. Ngài đã ủy nhiệm cho một chính phủ lâm thời lo mọi công việc tại
Lưu vong với đồng bào
Ngày 31 tháng 10 năm 1959, Ngài đã đến biên giới Ấn. Thủ tướng Nehru đã chấp nhận cho khoảng 80.000 người Tây Tạng tỵ nạn ở vùng nầy. Đức Đạt Lai Lạt Ma lãnh đạo một chính phủ lưu vong mà quốc tế không công nhận, nhưng đã trở thành Niềm Tin và Hy Vọng của người dân Tây Tạng trong nước cũng như khắp nơi trên thế giới.
Năm 1959, đức Đạt Lai Lạt Ma cùng nhiều tín đồ, giáo sĩ đã lưu vong sang Ấn Độ và nhiều quốc gia khác. Ngài đặt tổng hành dinh của mình tại Dharamsala trong dãy Hy Mã Lạp Sơn, nhưng Ngài thường du hành khắp nơi không ngừng để vận động độc lập, tự do cho dân tộc, xứ sở Ngài, hoà bình cho con người và để mở mang Phật Giáo, đặc biệt vào Châu Âu và Hoa Kỳ.
Hiện nay có khoảng 123.000 người dân Tây Tạng sống lưu vong như ngài. Ngài được trao giải thưởng Nobel về Hoà bình vào năm 1989 và được xem là một trong những nhà lãnh đạo tinh thần có tầm vóc thế giới.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đi nhiều nơi trên lãnh thổ Ấn Độ, đến Mỹ Châu, Úc Châu, Nhật Bản, Đông Nam Á, Âu Châu, Liên Xô và Mông Cổ để gặp gỡ và tuyên dương tinh thần cởi mở và tự do. Ngài cũng từng lưu lại những bài diễn văn hùng hồn về tư tưởng nầy.
Về vấn đề Tây Tạng, đã nhiều lần Ngài cố gắng giảng hoà với Bắc Kinh, đòi hỏi quyền tự quyết của đất nước mình, dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc. Theo Ngài, đó là con đường khả dĩ giải quyết trong hiểu biết và hoà bình. Ngài cũng tin tưởng vào nền hoà bình và hợp tác có hiệu quả giữa nhiều tôn giáo, về quan điểm thế giới và quốc gia. Trong những chương trình hội luận và hội thảo các tôn giáo trên hoàn cầu, tiếng nói của Ngài trở thành một trong những quan điểm được nghiên cứu nhiều nhất.
Cá nhân của Ngài cũng được những người không là Phật tử tại Ấn Độ tôn sùng trong lãnh vực tôn giáo cũng như về phương diện đạo đức. Ngài cũng đã từng đứng ra hoà giải những bất hoà giữa những tôn giáo Ấn Độ. Phật Tử vùng Viễn Đông và Đông Nam Á xem Ngài là một vị đại diện Phật Giáo Quốc tế.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhiều lần gặp gỡ các vị đại diện Ki Tô Giáo như đức Giáo Hoàng Paul VI, Johannes Paul II, đại diện hội đồng nhà thờ thế giới và đức tổng giám mục cuả Canterburg. Buổi cầu nguyện cho nền hoà bình thế giới tại
An lạc nơi đất khách
Hiện nay đức Đạt Lai Lạt Ma những cộng sự viên của ngài về chính trị và tôn giáo, những người Tây Tạng lưu vong đều tập trung tại vùng thị trấn nhỏ bé Mc Leod Ganj, thuộc tiểu bang Himachai, phía bắc Ấn Độ. Vùng đất nầy có tên là Dharamsala, được thủ tướng Ấn Độ và cũng là một người bạn của đức Đạt Lai Lạt Ma, ông Nehru lập riêng cho dân chúng Tây Tạng sau năm 1959. Dharamsala theo ngữ nghĩa Hindu, là những tịnh xá giành cho khách hành hương, ngày nay đã trở thành ngôi nhà của chính phủ Tây Tạng lưu vong. Nơi đây cũng là Niềm Tin và Hy Vọng của người Tây Tạng trong nước ngày đêm hướng về.
Nhà cửa của dân chúng ở đây rất nhỏ, tuy nhiên được xếp đặt ngăn nắp, cân đối. Đây cũng là một điạ điểm du lịch nổi tiếng nhất của đất Ấn, kể từ năm 1959 trở về sau. Ai cũng muốn đến thăm, san sẻ tình thương, nhất là được chiêm ngưỡng hình bóng từ bi, lạc quan, thân thiết của vị lãnh đạo tinh thần nầy. Đó là một thị trấn nhỏ nằm ôm theo triền dốc và những đồi thông bạt ngàn. Vùng nầy trước là đất chết, nhưng nay trở nên sinh động lạ thường. Những người tỵ nạn hăng say làm lại cuộc đời trên đất mới. Dân thập phương đến cúng lễ, nghe Pháp. Tiếng chuông vang vọng trong những hoàng hôn báo hiệu giờ cầu kinh. Những ngọn cờ Phật Giáo phất phơ trên những triền núi các nóc chùa; những vị tỳ kheo đi khất thực đâu đó trên các đường phố với nét mặt từ bi, tự tại, thoát tục. Người Tây Tạng cũng như người Ấn Độ đều tự hào về vùng đất nầy.
Mỗi năm có từ 5 triệu đến 10 triệu người trên khắp thế giới bất luận theo tôn giáo nào đã đến vùng đất nầy để tham quan trong những chuyến du lịch. Tại Dharamsala đã xây dựng lên nhiều ngôi chùa Tây Tạng vây quanh một khu đất rộng lớn. Người Tây Tạng gọi vùng nầy là Đại Thừa Giáo Xứ. Dinh đức Đạt Lai Lạt Ma ở trên cùng; phía dưới là hệ thống sinh hoạt tôn giáo và văn hoá, gồm có một viên Đại học biện chứng Phật Giáo, một thư viện khổng lồ, một văn khố, mợt nhà xuất bản kinh sách và những ngôi nhà của chính phủ lưu vong.
Những ngôi nhà và trung tâm nầy được kiến tạo lên do sự đóng góp tài chánh của những tổ chức Ky Tô Giáo. Sự giúp đỡ “ngoài biên giới tôn giáo” nầy do hạnh nguyện vị tha và giao lưu do đức Đạt Lai Lạt Ma đề ra. Bên cạnh thư viện có một trường đại học y khoa được dựng lên trong thời gian sau nầy. Viện nầy nổi tiếng khắp nơi; chính giới y học Trung Hoa cũng khâm phục khoa dược học của Hy Mã Lạp Sơn được nghiên cứu và giảng dạy tại đây.
Nhiều nhà khoa học tự nhiên các nước Âu Mỹ thường đến đây để nghiên cứu dược lý trị liệu Đông Phương. Chính đức Đạt Lai Lạt Ma cũng từng khuyến khích nên phát triển nền y học cổ truyền Tây Tạng, không phải trên giáo điều mà bằng thực chứng. Cạnh Viện nầy là một bệnh viện tổ chức theo mô hình Tây Phương. Như vậy ở đây, Đông và Tây đã gặp gỡ nhau. Những khách sạn được dựng lên với những tiện nghi đầy đủ đã thoả mãn nhu cầu du khách.
Giới du khách đến đây gồm đủ loại: từ những ông khách Tây ba lô, những tăng ni đủ các hệ phái Phật Giáo, những nhà nghiên cứu tôn giáo, những người có óc tò mò tìm những điểm du lịch mới đã tìm đến đây. Họ cảm thấy bình an trong tâm hồn khi đặt chân đến vùng nầy.
Ngôi tịnh xá của đức Đạt Lai Lạt Ma vốn khiêm cung, nhưng dường như khách thập phương nối đuôi nhau tìm đến, tâm bình an, trí thảnh thơi. Phiá trước là một vườn trồng đầy hoa hồng, hướng đến những dãy núi trùng trùng điệp điệp.
Về đêm, khung cảnh nơi đây thật huyền diệu. Những khách sạn cao tầng bên những triền núi, bầu trời trong vắt, qua những lớp sương mù, những ngọn đèn thành phố. Càng ngày thành phố trở nên tráng lệ, đàng hoàng hơn, cũng là nơi trút bỏ những ưu tư của người dân Tây Tạng, bên cạnh vị lãnh đạo tinh thần của họ. Nhiều lần trong những khi tâm sự, Ngài chi biết: “Khi nghĩ đến những khốn khổ của dân tộc mình quá to tát, tôi bước ra ngoài, nhìn lên không trung; từ đó có thể trang trải cõi lòng mình, hoà vào thiên nhiên, khi đó có thể xóa tan được những ưu phiền của trần gian nầy. Khi đó, hiểu được rằng cuộc đời vẫn còn nhiều ý nghĩa”.
Hình ảnh của Ngài trong lớp áo Lạt Ma đỏ và vàng được hiện ra khắp nơi, trở thành hình ảnh của đạo hạnh. Nhiều người ngưỡng mộ. Thậm chí, nhiều người trong giới truyền thông và điện ảnh Hoa Kỳ, do nhu cầu thông tin và quảng bá, đã tìm đến để xin phỏng vấn, thu hình và dựng những thước phim về cuộc đời lưu vong của ngài tại Dhamarsala.
Ngài ít khi thích thú về sự hiện diện của mình trong những chương trình truyền bá như thế. Một đệ tử của ngài cho biết: “Chúng tôi không nhận thấy được vai trò nào thích hợp với đức Phật trong những chương trình truyền hình như thế”.
Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng như hầu hết những cao tăng Tây Tạng trên bước đường lưu đày của mình có đầu óc khôi hài và tin tưởng. Nụ cười không bao giờ tắt trên khuôn mặt của Ngài; ít khi Ngài thiếu vắng nụ cười hiền hoà của mình. Chính tinh thần lạc quan nầy đã giúp cho những tín đồ Tây Tạng trở thành sức mạnh thu hút mãnh liệt với nhưng người chưa hề quen biết và giúp cho họ hội nhập dễ dàng, làm quen với những người lân cận.
Có những vụ xích mích nhỏ của người Tây Tạng lưu vong với các sắc dân Ấn trong vùng nhưng rồi họ cũng đã giải thoả mau chóng. Lòng từ bi, hỉ xả đã giúp đức Đạt Lai Lạt Ma thành công trong những vụ hàn gắn các rạn vỡ nầy một cách dễ dàng. Ngài đã truyền sức sống lạc quan cho người chung quanh mình trong bất cứ trường hợp nào chăng nữa. Giáo sư Frederich Deutsche trong một buổi tiếp xúc với Ngài đã cho biết: “Ở con người đức Phật sống nầy chúng ta dễ dàng nhận được lòng từ bi, hỉ xả, tình thương yêu, độ lượng, ngay với cả kẻ thù của mình”.
Ngài tham gia nhiều cuộc hội thoại, trong đó hoà đồng thế giới là điều Ngài cổ vũ nhiều nhất. Người tỵ nạn Tây Tạng đã vượt khó để xây dựng văn hoá. Bằng chứng là trong thời gian gần đây, họ đã xây một trường Đại Học Tây Tạng ở Sarnath gần
Người dân tỵ nạn đã tìm được ở đây những gì là truyền thống và nhân bản. Lại có ngôi làng Thiếu Nhi để tiếp đón những trẻ em vừa mời đến. Châm ngôn của những người tỵ nạn là: chăm chỉ và bền bỉ. Vượt lên trên là niềm tin tôn giáo. Thành thử, trong hoàn cảnh nào, ta vẫn thấy trên nét mặt người Tây Tạng nụ cười rạng rỡ.
Một ngày của đức Đạt Lai Lạt Ma
Trong một cuộc phỏng vấn gần đây của tuần báo Life xuất bản tại Luân Đôn với đức Đạt Lai Lạt Ma về cuộc đời quá khứ của Ngài, có đoạn nêu lên những điểm đặc biệt như sau: Ngài nhấn mạnh: Danh xưng “Đạt Lai” dịch âm theo tiếng Trung Hoa, có nghĩa là “đức Phật sống”. Nhưng tại Tây Tạng thì danh từ nầy có nghĩa là “Ông vua của Phật Pháp”, hay “Ông vua của Chân Lý”. Tôi là một tu sĩ đã được chỉ định sẵn ngay sau khi được tìm kiếm về Hoá sinh của vị tiền nhiệm. Không ai có quyền thay đổi gì, khi tôi vẫn tiếp tục thi hành những nguyên tắc trên, với tư cách là một tu sĩ Tây Tạng, cái tước hiệu Đạt Lai Lạt Ma có thể thuộc về người khác.
Nhiều người tò mò theo dõi cuộc đời tranh đấu và lãnh đạo người dân Tây Tạng, muốn hiểu cuộc sống thường nhật của Ngài. Chính Ngài đã kể lại cho phóng viên của tờ Life như sau:
Những khi ở Dharmasala (Ấn Độ) cuộc sống của tôi thường nhật vẫn đều đặn như sau: Tôi trở dậy vào khoảng 4 giờ hay 4 giờ rưỡi sáng. Khi nào thấy tâm hồn thoải mái, tôi tập thể dục; nếu không sẽ ngồi theo tư thế thiền định, suy gẫm và đọc kinh. Đến 5 giờ rưỡi sáng, ăn sáng, bánh mì với mật ong; đôi khi dùng trà; đôi khi dùng bỏng ngô. Sau đó thì học tập. Tôi học nhiều nhất là Triết Lý Phật Giáo, nhưng thường là học những lời đức Phật dạy.
Về chính trị, tôi chỉ thu thập qua kinh nghiệm sống của tôi mà thôi. Ông thầy giỏi nhất về chính trị là ông bạn láng giềng của tôi là Trung Hoa qua bao nhiêu triều đại qua. Về những người Ấn, họ là những người bạn thân của tôi. Đến 10 giờ rưỡi, sau khi làm việc một hồi về tôn giáo và hành chánh, tôi ăn trưa. Ngày trước tôi ăn trường trai, nhưng về sau mắc bệnh vàng da, những y sĩ khuyên tôi nên ăn cá và tôi đã làm như thế để có sức khoẻ, tránh bệnh tật. Sau đó thì làm việc tại văn phòng, tiếp kiến người nọ, người kia; đôi khi thì thuyết giảng về một vấn đề nào đó cho một nhóm người nào đó.
Suốt cả buổi chiều thì việc tiếp kiến vẫn tiếp tục. Đến 6 giờ chiều, tôi uống trà và nhịn đói cho đến sáng hôm sau. Vào khoảng 9 hay 10 giờ tối thì tôi đi ngủ. Trước đó thì thiền định”.
Trải qua không biết bao nhiêu biến cố của đất nước cũng như cuộc đời của Ngài trên bước đường lưu vong, nhưng đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn lạc quan, đôi khi còn trào phúng vui tươi, theo Ngài đó là bản chất và truyền thống Tây Tạng.
(Kiêm Đạt trích dịch: An lạc trong lưu đày)