Trang chủ Văn hóa Chùa Việt Nam Dòng chảy chùa Việt Nam

Dòng chảy chùa Việt Nam

63

 Vị trí của nước Việt nằm giữa  đường giao thông của hai nước lớn, có nền  văn minh cổ là  Ấn Độ và Trung  Hoa. Điều kiện địa  lý và cảnh quan nầy, tất nhiên Việt  Nam không thể phát  triển văn hoá một cách hoàn  toàn độc lập. Những ảnh hưởng  của hai nền văn hoánói trên trực tiếp hay gián tiếp, hữu cơ hay vô cơ, trong sự giao lưu là điều tất yếu.


Trong giai  đoạn đầu tiên, khó  có thể xác định  được cụ thể tông phái Phật Giáo nào đã chi phối  tới Phật Giáo Việt Nam; tuy nhiên điều khẳng định rõ là Phật Giáo Đại  Thừa đã theo các vị sư Ấn Độ theo đường biển  đưa vào đất Giao Châu. Đường  bộ cũng là ngõ vào  thứ hai. Sách “Ngô Chí” có đoạn chép: “Sĩ Nhiếp qua làm Thái thú quận Giao Chỉ, sau lên  làm Thứ sử Giao Châu; trước  sau khoảng ngót 40 năm(187 –  222). Khi ra đường,  người ta thường nghe  có những tiếng mõ, kiểng, chiêng,  trống và thấy bọn Rợ Hồ  cầm hương đi hai bên xe từng toán hàng chục người…”  Căn cứ vào tài liệu nầy,  danh xưng “Rợ Hồ” ám chỉ là  các Tăng sĩ người Thiên Trúc  (Ấn Độ), người Nguyệt  Thị (Tây Bắc Ấn  Độ) hay người Khang Cư (xứ Boukhara, Tân Cương thuộc Nga).


Điều nầy chứng tỏ những nhà sư  Ấn  Độ đã sang  truyền giáo, tổ chức lễ hội và được dân chúng tin theo. Với đường biển, đạo Phật và Bà La Môn Giáo từ đất Ấn đã lan tràn hầu hết các nước vùng Đông Nam Á, và trong những phương thức hành đạo và truyền đạo đã không tránh khỏi với văn hoá bản địa để được trường tồn. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: đạo Phật đến đất Giao Châu còn sớm hơn các trung tâm Phật Giáo Bành Thành và Lạc Dương. Có thể thấy được  tư liệu  trong Thủy  Kinh Chú  ghi chép:  “Sau một thời với những chiến tích oanh liệt, vua A Dục (Asoka)  hối hận trước các cuộc chinh chiến  đẫm máu, nên đã hồi hướng Phật Đạo. Nhà vua đã trở lại chuyên tâm làm điều thiện, hoằng  dương Phật Pháp. Một trong những ngôi tháp đã được nhà vua cho dựng là ở trên đất Việt  (thế kỷ thứ III trước Công nguyên). Vào thời Sĩ Nhiếp (cuối thế kỷ thứ II, đầu thế kỷ III), có lẽ đạo Phật đã phát  triển vững vàng tại Luy Lâu, nơi mà nhiều cao tăng người Ấn và người Trung Hoa đến thành nầy để thuyết pháp. Cũng thời nầy, nhiều danh tăng nước  ngoài đã đến tu ở những ngôi chùa Việt vùng Luy Lâu; trong số có nhà sư Khâu Đà La (Ksuka) và Ma Ha Kỳ Vực (Jivaka).


Câu chuyện về nàng Man Nương  trong mối quan hệ với sư Khâu Đà La, nếu được coi là một cứ tích lịch sử, thì ngay từ buổi đầu, Phật Giáo đã sớm kết hợp với tín ngưỡng bản địa; việc thờ  cúng một số vị thần về  nông nghiệp hoá thân thành Phật như ở chùa  Bà Dâu (Pháp Vân), chùa Bà Đậu  (Pháp Vũ), chùa Bà Giàn (Pháp Lôi), chùa Bà Tướng (Pháp  Điện). Cả 4 vị hợp thành hệ thống Tứ Pháp. Ngoài ra sự tích gắn  liền với nhiều  phép lạ có tính chất phù chú (Tantrism), có  thể được bổ sung trong thời đại sau, tuy nhiên, ít nhiều vẫn nói lên thế giới siêu nhiên là thích vào sự linh dị. Đây có lẽ là  một hình thức Mật Giáo hay đã nhiễm Bà La Môn Giáo vì Khâu Đà La là  người xướng xuất,  nguyên thuộc dòng  nầy. Như thế, nền tín ngưỡng thời nầy chưa hẳn là Phật Giáo thuần túy.


Cũng có thể  tìm hiểu thêm trong sách Mâu Tử (tức Mâu Bác):  “Sau khi vua  Hán Linh Đế (168  – 189) mất, trong  nước (Trung Hoa) có loạn, chỉ  có đất Giao  Châu tạm yên,  cho nên những  sĩ phu sang lánh nạn. Nhiều đạo sĩ đem  truyền các “ngoại đạo” như: Thần đạo, Tiên đạo, Trường sanh đạo…”. Giữa  cảnh tượng nhộn nhịp của thủ phủ Giao Châu  bấy giờ với  những gia đình  từ phương Bắc  di cư tới, những khách buôn, những đạo sĩ từ  Tây Trúc, từ các xứ phương Nam đến giao thương, lưu trú, đem theo những nếp sống, những niềm tin tưởng phức  tạp, khác biệt nhau. 


Chùa Pháp Vân vẫn  là trung tâm tín ngưỡng quan trọng hơn cả. Cũng nổi  tiếng trong giai đoạn  đầu của thiên niên  kỷ thứ nhất, trên đất Giao Châu còn có nhiều  nhà lý luận Phật Học như Mâu Bác với “Lý hoặc  luận”, Khương Tăng Hội, Chi Cương  Lương Tiếp, Ma Ha Kỳ Vực…  Nhìn chung, bóng dáng  của Thiền Tông, nhất là yếu tố Mật Tông  đã được các đại  sư phát chiếu trên  đất Việt. Khắp nơi được dân chúng sùng bái.   


Trong Thiền Uyển Tập Anh –  Truyện Thông Biện, nhà sư Đàm Thiên nói với Tùy Văn Đế như sau: “Xứ Giao Châu có đường thông sang Thiên Trúc (Ấn  Độ), khi Phật Giáo chưa phổ  cập ở Giang Đông, mà nơi ấy đã xây ở thành Luy Lâu hơn 20 ngôi bảo sát (nơi thờ Phật), độ được hơn 500 nhà sư, dịch được 15 bộ kinh rồi…”


Trên đây là  hình ảnh Phật Giáo vào Giao Châu buổi đầu. Việt Nam qua  thời kỳ  ban đầu  thành lập, trải qua nhiều biến động liên tiếp; kể từ đời nhà Đinh (968) nhiều vị thiền sư đã thực thụ tham gia triều chánh, đưa ra nhiều dự án cải cách, về quốc phòng, ngoại giao, luật pháp, hành chánh, xã hội, văn hoá.  Sang đời Lý, nước Đại Việt bước vào thời cực thịnh. Các tôn giáo được phát triển mạnh. Khổng giáo  cũng được nâng đỡ để tiến phát. Nhiều khoa thi Tam giáo tổ chức để chọn nhân tài ở các tôn giáo lớn. Những công trình văn hóa cung  đình cũng như văn hóa dân gian đều nở rộ. Ca nhạc, kiến trúc, nhất là  kiến trúc đô thị, chùa tháp, đình miếu, điện đài đã phát triển mạnh.  Nhà Lý đã triệt để áp dụng lý thuyết đạo Phật vào mọi lĩnh vực…


Dưới  đời nhà  Lý chùa chiền, bảo tháp được  kiến tạo  nhiều hơn trước. Tuy  nhiên các chùa tháp  được xây dựng trong  thời kỳ nầy không đồ sộ, tốn kém lấm những các chùa tháp của Chiêm Thành, Kampuchia, Trung Hoa… đã gây hao  hụt tài nguyên quốc gia, nhân lực của toàn dân. Vào đời Lý,  các vị thiền sư cũng như vua quan, dân chúng không kỳ thị tôn giáo, chủng tộc, quý tiện, đều đối xử rộng rãi, bình đẳng với mọi  người trong mọi trường hợp. Tam giáo (Nho, Thích, Lão) được nâng đỡ  ngang nhau. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đích thân sang đánh Chiêm Thành, bắt được vua nước đó là Chế Củ vùng nhiều tù binh, trong số có nhà Hòa thượng Thảo Đường. Sau ngày được suy tôn làm vị Tổ  của một Thiền phái tại nước ta, phái Thảo Đường. Các vua, quan, quần chúng tới xin làm đệ tử rất đông. Các ngôi chùa trong giai đoạn nầy  không chỉ dành để thờ Phật, mà còn sử dụng như là một trung  tâm sinh hoạt văn hóa, xã hội, giáo dục, đồng thời cũng là nơi để vua quan đến thăm viếng, nghỉ ngơi, uận bàn  giáo lý và  các vấn đề  trọng đại khác.  Đạo Phật không ngăn bước phát triển cho quốc gia, dân tộc.


Trong quá  trình phát triển Phật  Giáo trên đất nước  ta, đã hình thành nhiều tông phái.


Tông phái  Tỳ Ni Đa Lưu Chi


Vào thế kỷ thứ V  và thứ VI, đạo Phật ở đất Việt trên đà phát triển khá mạnh. Một người con Phật đã từng làm vua  nước Vạn Xuân là Lý Phật Tử  (Hậu Lý Nam Đế). Và cuối thế kỷ  thứ VI, với sự xuất  hiện của ngài Tỳ Ni  Đa Lưu Chi (Vinitarusi) với  những đệ tử truyền  thừa như là một  khẳng định nước đi của  Phật Giáo Việt Nam. Tông phái  nầy lan toả rộng khắp mọi vùng đất nước, truyền thừa qua nhiều thế hệ. Vì đã ăn sâu bám rễ trong quảng đại quần chúng, cho  nên tông phái nầy đã có nhiều đóng  góp trong  công cuộc  xây dựng  đất nước  trên nhiều ngành, nhiều lãnh vực. Một số nhà sư  của tông phái Tỳ Ni đã là  những nhà trí thức lớn, có vai trò góp phần quyết định trong cuộc kiến tạo xã hội. Có thể thấy rõ  với vai trò  của thiền sư Vạn Hạnh (thế  hệ thứ 12) và người em ông là Lý Khánh Văn  trong việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua, lập  ra triều Lý.


Vạn Hạnh thiền  sư và nhiều vị danh tăng khác đời Lý đã đi vào huyền thoại dân gian một cách sâu đậm.  Chẳng hạn như công năng, truyền đạo của nhà sư Từ Đạo Hạnh đã gợi ý cho nhiều nhà nghiên cứu Phật  Giáo trong thời gian gần lại đây suy nghĩ  đến về một dòng Phật Giáo du nhập vào  đất Việt, theo đường sông Hồng, từ phía tây bắc của đờng bằng Bắc Phần Việt Nam. Qua những giải lý, tông phái Tỳ Ni không hoàn toàn đặt trọng tâm vào ý nghĩa cứu cánh của Phật pháp, mà tìm đường giải thoát, liễu ngộ Niết bàn bằng cả những phương thức khá xa với giáo lý gốc nhà Phật, gần gủi với Mật Tông. Mặt nào đó lại chịu ảnh hưởng của Lạt Ma Giáo và Phù Chú Giáo, đồng thời hoà nhập với tinh thần tín ngưỡng bản địa.Tông phái nầy khuyên hành trì nhiều về thiền tọa và những mật ngữ, để thúc đẩy sự tinh tiến trên đường tu hành. Phái nầy đã làm cơ sở cho việc thờ cúng các chùa làng trong  giai đoạn đó. Nhữngngôi chùa cổ thời nầy không thể tránh khỏi sự hội nhập vào tín lý những vị thần linh địa phương.


Tông phái Vô Ngôn Thông


Vào thế kỷ thứ IX, một tông phái khác đã phát triển mạnh trên đất  Việt có tên là  Vô Ngôn Thông. Tông phái  nầy đi  sâu vào nghĩa cứu cánh của  Phật pháp,  nhưng chủ trương đốn ngộ, cho rằng: Con  người có thể đạt  đến sự giác ngộ trong khoảng  thời gian ngắn bằng  cách tu trì đặc  biệt. Như tên gọi, Vô Ngôn Thông là thông hiểu  và tu trì theo lối “nói các lời không nói”. Phái  nầy chịu  ảnh hưởng  của Tịnh  Độ Tông,  đã để  lại cho đời nhiều suy  nghĩ về lẽ  huyền vi của  đạo. Do đó  ít được phổ  cập trong dân  chúng, vì lề lối  tu trì thiên về  tâm tưởng, xuất thế gian. Lối tu phổ cập nhất của  tông phái nầy là “quán bích” (quay mặt vào  tường, nhìn vào một  điểm tập trung tư  tưởng) của Bồ Đề Đạt Ma.  Tập trung tư tưởng  để tìm tới “Diệu  Tâm Chân Như”, tùy theo trình độ giác ngộ của từng người, đó  là điểm then chốt của tông phái nầy. Hiện nay, vết tích của Vô Ngôn Thông chỉ còn lưu lại cho chúng ta dấu ấn tại chùa Kiến  Sơ (Gia  Lâm, Hà Nội), vài đoạn trên sách sử và niềm hoài  niệm bàng bạc trong số những  nhà tu hành uyên bác. Có  thể nhận  định rằng:  vào giai  đoạn đó,  đã có  một hệ thống truyền thừa  Vô Ngôn Thông,  nhưng ảnh hưởng  trong dân gian  vẫn chưa sâu đậm mấy.


Thiền phái Thảo Đường      


Năm 1069, vua Lý Thánh Tông  sang đánh Chiêm Thành thắng lợi, bắt được nhiều  tù binh; trong số  có nhà sư Thảo  Đường từ Trung Hoa sang truyền  giáo. Khâm phục về  tinh thông uyên bác  và đạo hạnh của ngài, vua Lý phong làm quốc sư, trụ trì chùa Khai Quốc.  Thiền học của Thảo Đường chứa sắc thái  mới, nên đã trở thành một thiền phái mang tên ngài. Một trong  những đặc điểm của thiền phái Thảo Đường là  dung hợp Phật Giáo  và Nho Giáo; chính  điều nầy đã ảnh hưởng nhiều  đến Phật Giáo đời  Trần về sau nầy.  Theo Thiền Uyển Tập Anh thì phần lớn những môn  đồ của phái Thảo Đường thuộc hàng ngũ trí  thức, quan lại, vua  chúa. Vì chủ trương  thiên trọng về trí thức và văn học, cho nên  phái nầy không lan rộng trong quảng đại quần chúng, cũng không tạo nên một truyền thống sinh hoạt tăng viện. Thế hệ thứ  hai của thiền phái nầy là thiền  sư Bát Nhã. Vị sư nầy chú  trọng đến tà thuật,  thần bí, không sống  trong hệ thống tăng viện.  Do đó không ảnh hưởng lâu dài sau nầy.


Trúc Lâm Tam Tổ


Năm 1299, vua Trần Nhân Tông xuất gia tại chùa Hoa Yên núi Yên Tử, được nhận là truyền thừa thứ sáu của  phái Yên Tử, sau đó trở thành đệ nhất tổ của phái Trúc Lâm. Một vị vua từng đánh bại quân Nguyên, đem thái bình  thịnh trị cho đất nước, trở thành nhà tu hành, cho nên được mọi người trọng vọng. Tông phái nầy nhờ đó phát triển rất mạnh. Năm 1306,  đệ tử chân truyền của Trúc Lâm là thiền sư Pháp Loa (1284 – 1330) trở thành Trúc Lâm đệ nhị tổ; năm 1309, thiền sư Huyền  Quang (1254 – 1334) trở thành  đệ tử của Pháp Loa và là Trúc Lâm đệ tam tổ. Chủ trương của thiền phái Trúc  Lâm là: phát triển Phật Giáo trong lòng thế  tục “hòa ánh sáng  Phật Pháp vào cuộc  đời vốn đã nhuốm bụi bặm”.  Khác với  thiền phái Thảo Đường, Trúc Lâm Tam Tổ  sinh hoạt theo quy chế thiền  viện, tăng sinh theo giáo chế,  tham dự những buổi “đại tham” để tham vấn kiến thức về thiền. Thiền phái Trúc Lâm có ảnh  hưởng đến triều chánh, đồng thời cũng được sự  hỗ trợ của triều  đình để xây chùa,  dựng tháp. Nhưng về sau, Nho Giáo phát triển làm nền tảng chính trị, khiến vị thế các tăng sĩ trong triều không còn là  mấy. Do đó, thiền phái Trúc Lâm cũng suy thoái dần. Trên đây là  những nét chính về những tông  phái Phật Giáo từ đời Lý Nam Đế về sau.


Sự lớn mạnh  của đạo Phật đưa đến sự phát triển chùa chiền. Theo thời gian,  sắc thái chùa  tháp cũng biến  đổi. Từ kiến  trúc, đến điêu khắc, bài trí đồ tượng, hướng xây, cảnh quan nội thất… đều được chỉnh đốn dần.  Kiến trúc chùa  Nước ta  là một nước vùng  nhiệt đới, diện tích  rừng chiếm phần lớn. Những công trình kiến trúc  thời trước toàn bằng gỗ. Với khí hậu nhiều  mưa, lắm nắng, gió  bão thường xuyên, khí  hậu ẩm, cho nên những công trình bằng gỗ chẳng  còn lưu lại là bao nhiêu. Nền kiến trúc Phật  Giáo đời Lý đồ sộ  như thế, nhưng đến nay  thì bị hủy hoại gần  hết.


Đó là chưa kể những cuộc chiến tranh hủy hoại do phương Bắc gây hấn thường xuyên. Thậm chí  những kiến trúc về sau nầy, chẳng hạn thời Lê Mạc nhưng chẳng lưu lại là bao. Kiến trúc Phật Giáo nguyên  thủy vốn là  một loại bảo  tháp, bêntrong thờ tượng Phật. Cùng với sự phát triển của Phật Giáo Việt Nam, kiến  trúc chùa ngoài chức  năng ban đầu là khu tưởng niệm, khấn vái, rồi về sau trở thành nơi  tiến hành lễ hội, diễn xướng. Nếu ở chùa chiền ở Kampuchia, ở  Indonésia, chùa tháp  trở thành một quần thể đền  đài, cung điện, thì chùa Việt Nam thường tách khỏi mộ tháp trong việc thờ phụng. Với  kết cấu nầy, ngôi chùa chỉ còn là nơi lễ  bái của Phật Giáo đồ, nơi hành đạo và truyền  đạo của tăng chúng. 


Chùa cũng là nơi  biểu hiện các phạm  trù Phật Giáo, bằng một hệ thống các pho tượng Phật với những quy phạm tương đối chặt chẽ. Những di tích kiến trúc còn sót lại một vài phần thì phải kể đến: vì kèo chùa Thái Lạc (Lạc Hồng,  Văn Lâm, Hải Hưng), chùa Dâu (Thanh Khương, Thuận Thành, Hà Bắc), chùa  Bối Khê (Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Sơn Bình). Ngoài ra còn  tìm thấy được một số lượng điêu khắc hình gỗ trong hố chôn ở cánh đồng làng Bối  (Mỹ Thịnh, Mỹ Lộc, Hà Nam Ninh), bộ cánh cửa  chùa Phổ Minh.   Những thành  phần kiến trúc Phật  Giáo còn lưu lại  chủ yếu là ở những bộ khung  giá chiêng tại chùa Thái Lạc  làm tiêu biểu. Niên đại được xác định là cuối thế kỷ XIV. Khác với những thời sau, bộ phận nầy có dáng thấp hơn. Ở giữa không để rỗng mà được lắp ghép một mảng  gỗ có tạo hình quần lửa nhọn đầu.  Ngoài ra, ở chùa Thái Lạc còn có một số mảng cốn và cột trốn được lấp trên các  xà nách. Một số ván  nong to lớn có những  nét chạm khắc đẹp được ghép  ở giữa các xà dọc thượng và  xà dọc hạ. 


 Những chi tiết nầy có  tác dụng che kín các lớp kiến  trúc và trang trí thêm phần thẩm mỹ.  Phân tách cấu trúc vì kèo nầy  cho thấy: Bộ vì kèo giá chiêng của chùa  dựa trên  kết cấu  của 4  hàng chân  cột. Trên  đỉnh là một thượng lương (nóc).  Xà nầy tỳ lực trên một  đấu hình thuyền. Đấu nầy tỳ vào một rường ngắn mập.  Hai đầu rường thì lại được tỳ lực lên cột trốn  qua hai đầu qua đấu vuông  thót đáy. Phần không gian giới hạn  giữa hai cột  trốn bao giờ  cũng được lồng  một tấm ván hình lá đề, có chạm khắc trang  trí tỉ mỉ. Phía ngoài cột trốn là hai phần hình tam giác dưới dạng văn bưng dày, để có thể chịu lực được để đỡ phần hoành mái. Toàn bộ hệ thống kể trên được  tỳ trên một câu đầu vững chắc. Câu đầu nầy  được bào xoi  vỏ măng ở  hai bên, phần  lưng và bụng thì bằng phẳng. Câu đầu thì được tỳ lực vào trên hai đầu cột cái, quahai đấu vương thót đáy lớn.Với những thành phần cấu trúc trên, chùa Thái Lạc thường được xemlà mẫu kiến trúc chùa điển hình thời Lý Trần.Tại chùa  Bối Khê, hiện nay  còn giữa lại được  nhiều đầu đao củatòa thượng  điện. Những chi tiết  kiến trúc nầy dùng  để chống đỡcác mái  chùa, cốt là giữ  cho toàn bộ khung  chùa được vững chắchơn. Ở chỗ các  đầu đao nầy cũng được các nghệ  nhân thời đó chạm khắc công phu. Những nét chạm những đầu rồng to lớn đang há miệng ngậm ngọc  và phía ngoài là  một hình chim, loại  Garuda của điêu khắc Chàm.  Đầu đao là  mảng điêu khắc  quan trọng nhất  của nghệ thuật xây chùa. Các  vì kèo gỗ  của chùa chiền  đời Trần cũng được khắc chạm phong phú hơn hẳn các đời sau. Ở phần ván lưng, có hình quần lửa nhọn đầu; cả hai  mặt thường được chạm đôi rồng uốn khúc từ  trên xuống, uốn vào  giữa rồi ngẩng đầu  lên. Đề tài nầy thông thường là mẫu kiến  trúc, điêu khắc rất  quen thuộc hầu hết  các chùa chiền đời Lý Trần.


Cũng trên mảng ván bưng nầy, người ta thay rồng bằng hai tiên  nữ “đầu người mình  chim” (chùa Thái Lạc)  hay bằng hai hình chim phượng  chầu mặt nguyệt (chùa Bối  Khê). Ảnh hưởng Chàm khá rõ nét.  Còn ở các trụ chống, có lẽ  vì diện tích quá hẹp (rộng 30cm), cho nên được chạm mỗi mặt một tiên  nữ đang uốn người, giơ tay đỡ lấy bệ sen  phía trên; còn phía  dưới là hình sóng  nước nhấp nhô.  Có nhiều chỗ vì chiều cao hẹp, cho  nên nghệ nhân đã chạm hình người thượng giới; chẳng hạn như hình  ông phỗng (chùa Thái Lạc) có nơi chạm hình hoa  mẫu đơn (chùa Bối Khê), những  bệ tam cấp của chùa Diên Hựu…  Ở các ván nong  chùa Thái Lạc, có chạm khắc  nhiều cảnh về đề tài các tiên  nữ. Có nơi thì  hai tiên nữ đang  cưỡi lên chim phượng, một người thổi tiêu, người kia kéo  đàn nhị (chùa Dâu). Nơi khác thì có hình các tiên nữ đang thổi sáo, đánh đàn, dáng điệu linh hoạt. Cũng có cảnh tiên nữ đầu người, mình chim, giơ hai tay lên dâng hoa. Sinh động hơn cả là hình chạm ba nhạc công đang sử dụng những nhạc khí dân  tộc thuộc  bộ gõ  (trống) và  bộ giây  (đàn nhị). 


Những công trình trên đây  chẳng những là thể loại tác phẩm  nghệ thuật, mà lại còn là vốn tài liệu quý, giúp chúng ta hiểu được nền ca nhạc nghệthuật Lý Trần. Đem so sánh,  các nét chạm trang trí  trên gỗ đời Trần tỏ  ra tinh xảo nhưng  không bay bướm như  đời Lý, trông thật  hơn và mạnh mẽ hơn. Kiểu thức nầy đã tạo được  cảnh trí dung dị, gần gủi khi vào chùa. Tuy  những đề tài trình  bày có tính cách  quyền quý, chính thống, nhưng vẫn tìm ra được tính chất nghệ thuật dân gian. Nhìn chung, những di tích kiến  trúc Phật Giáo đời Trần được phân bố rộng hơn đời  Lý, phát triển thêm ở vùng trung  du và vùng đồi núi, lên cả vùng biên giới sát Trung Hoa.  Thời Lê Sơ,  những di tích Phật Giáo lưu  lại không còn lại là bao. Phần bảo lưu lại được tìm thấy tập  trung tại kinh thành Thăng Long và Lam Sơn, quê hương  vua Lê. Vài vết tích khác là  những bi ký tại vùng  Hoà Bình,  vùng đồng  bằng Bắc  Phần, bắc  Trung Phần.  Tuy nhiên, vẫn chưa được xác định  niên đại của những chứng tích nầy, so với triều đại trước đó.  Nhưng qua đời Mạc  đã có dấu hiệu mới.


Có tác  giả gọi đó là thời “bùng nổ”  của các di tích. Những di tích Phật Giáo đời Mạc tập trung vùng  đồng bằng Bắc Bộ, nhất là vùng Kiến  An, Hải Hưng, vùng Thăng Long, vùng duyên hải Bắc Bộ rồi chạy dài vào tận Thanh Nghệ. Một trong những  nét chính yếu của  mỹ thuật chùa chiền  ở giai đoạn nầy là thể loại “kiến trúc – mỹ thuật”, mà trong đó, mọi chi tiết kiến trúc,  điêu khắc đều  được thể hiện  các đường nét  mỹ thuật cao. Đời Hậu Lê,  chiến tranh triền miên, kinh đô  đắm chìm trong tang tóc, tranh  chấp; tuy nhiên, tại  vùng nông thôn, nhờ  tránh được những áp  lực của chính quyền  thiên về Nho giáo,  nên chùa chiền được phát  triển mạnh. Chùa  dựng lên tuy  cơ cấu nhỏ,  nhưng lại được trang trải về bề rộng. Trong  khuôn khổ sinh hoạt nầy, đã cósự đan xen giữa thờ Phật và thờ Thần.


Trong khi đó, Phật Giáo Đàng Trong lại được phát triển dưới thời các chúa Nguyễn kéo dài qua triều vua Nguyễn  (1802 – 1945). Huế trở thành kinh đô, cho nên chùa  chiền được xây dựng nhiều ở vùng đất Phú Xuân  trở vào đến vùng Đồng Nai,  theo dấu chân của những đoàn người di cư. Sự phát triển Phật Giáo miền Trung và miền Nam vừa truyền  thừa những tông phái từ trước, mặt khác phải thích nghi với hoàn cảnh, tính bản địa, hoà hợp tín ngưỡng dân gian để phổ biến, trường tồn.


Thế đất, hướng chùa   


Nếu ngôi đình thường được kiến tạo ở địa điểm trung ương của làng  để tiện việc lễ bái, hội họp, thì ngôi chùa lại thường được dựnglên trong cảnh  thâm u, tĩnh mịch. Ở triền núi, trong hang động,trong rừng  sâu, ẩn khuất sâu trong những lùm cây um tùm… đều là cảnh  trí của chùa thường  thấy nhất. Chùa Hương ở huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, chùa Yên Tử ở Quảng Ninh, chùa Tam Thanh  ở Lạng Sơn,  chùa Tam Thai,  Linh Ứng ở  Ngũ Hành Sơn, những ngôi chùa  phía bắc kinh thành Huế… đều  ở những vùng núi cao, rừng  thẳm, hang sâu.  Càng khó khăn  trong việc hành  hương chùa  chiền chừng  nào, tín  hữu thập  phương càng  cảm thấy lòng thành tâm của mình càng được linh ứng hơn. Đa số  chùa chiền thường  mở về  hướng  Nam, từ Đông  Nam đến Tây Nam… Giải thích điều nầy, nhiều nhà nghiên cứu thường dựa  vào câu “Thánh nhân Nam diện nhi thính thiên hạ”.  Nhưng điều nầy chỉ thích hợp  với cung điện nhà vua thời trước. Có người giải  thích: Hướng Nam là phương của Bát Nhã, là Trí Huệ, tức là cứu cánh của Phật Đạo. 


Tuy nhiên, nhiều  ngôi chùa lại được xây về  hướng Tây tức là Tây Phương, hướng  của sự “ổn  định”, hợp với  sự vận hành  của lý âm dương.  Linh  địa là  một trong  những điều  chính yếu  để dựng chùa, xây tháp.  Trong khi  chọn hướng, yếu tố  “nước” (dòng nước, hướng  nước, mạch  nước) cũng rất quan trọng. Trung Hoa nêu lên 5 yếu tố để xây chùa  gọi là “Ngũ bất khả” (5 điều  không thể làm), trong việc chọn đất xây chùa. Phong thủy trở thành điều kiện không thể thiếu khi chọn hướng, lập nền, chọn cảnh.  Truyền thuyết có nói đến chuyện  Cao Biền khi sang nước ta thường chọn những đại địa, quý huyệt để  trừ yễm. Cao Biền đem những cây tháp nung đến Bát Vạn Sơn để  dựng thành cây tháp lớn, với dụng ýđó. Ngoài  ra Cao Biền lại  còn lập chùa Linh  Diên bên thành Đại La, chùa Kim Ngưu tại Tiên Du,  để lại nghi chủng (ngôi mộ giả) ở Đông Côi  (Thuận Thành), dựng tháp  trên núi Đông Cứu  là nơi Cao Biền đóng quân. Để làm gì? Sách  “Nam Giải Lý” cho biết: “Cao Biền dùng các phương thức nầy để trấn  giữ địa huyệt, ghi dấu tích của mình cho được trường tồn”.  Âm phần, dương cơ, cả 2 mặt đều phải được chọn hướng theo thuật phong thủy. Sách “An  Tượng” của chùa  Thiền Pháp, thôn  An Trạch (Hà Nội) có  nêu lên việc chọn địa điểm xây chùa như sau:  “Lập chùa ở xứ nào thì nên  chọn đất lành, ngày lành, giờ lành.  Đất lành là bên trái nên để  trống rỗng, hoặc có sông ngòi, ao hồ  ôm bọc; bên phải,  tay hổ (hổ sơn) nên cao dày,  lớp lớp quay đầu lại; hay có hoa sen, tràng phan,  bảo cái (gò đất); hoặc có rồng,phượng, rùa  rắn chầu bái. Ấy  là đất dương cơ,  tay hổ vậy. Cũng lại nên cưỡi đảo  lại, như người cưỡi ngựa đi thì  đầu phải đi vềphía trước, giòng nước chảy đảo sang bên trái. Trước mặt, hoặc có  minh đường, hay không minh đường, đều được cả. Đằng sau không nêncó núi, vì  áp bức. Đó là đất  lành. Muốn coi ngày tốt,  giờ tốt,thì nên dùng các sách “Ngọc Hạp”, “Tu Cát”… 


Một trong  những yếu tố tạo  nên khung cảnh trang  nghiêm của một ngôi chùa  là quang cảnh  bên trong. Không  gian của chùa  vốn dĩ thường đóng kín, ánh sáng chiếu vào rất hạn chế.  Khi ánh sáng toả vào chùa theo  con đường khúc xạ và phản  quang, cho nên cường độ  cũng rất yếu, khác hẳn không gian nội thất của đình làng.  Đã thế, việc trang trí điện thờ ở chùa  lại khá phức tạp, nhiều tầng lớp, đủ thể loại, đã gia tăng thêm  cảnh u tịch, huyền bí, oai nghiêm. Bên trong,  với không gian  chùa như thế,  những khối tròn,  nhẳn bóng thường đọng ánh sáng và nổi lên  rất rõ nét. Do đó, khi tạo hình, những pho  tượng thường có bề  mặt rất nhẵn, những  khối rất căng tròn. Những dãy tượng trong chùa  thường xếp thành hàng như Di Đà Tam Tôn,  Quần tượng Tam Thế,  những tượng Quan Thế  Âm Chuẩn đề, Tống  tử, Niệm  hương, Tượng  Ngọc Hoàng,  Đế Thích,  Thập Bát La Hán… cân xứng, đăng đối.   Tất cả những tượng nầy thường bằng gỗ,sơn son thếp  vàng lộng lẫy. Cho nên khi  ánh sáng dọi vào, những khối vàng sơn đặt cạnh bên nhau nổi lên rất rõ nét.  


Cả không gian chung quanh tràn ngập toàn màu  vàng. Chỗ sáng, chỗ tối, chỗ đậm, chỗ nhạt, hư hư, thực thực, mờ mờ ảo ảo, biểu hiện nét sắc sắc, không không của  đạo Phật. Màu vàng theo quan  niệm triết lý Đông Phương là  Hành Thổ, là trung  tâm điểm, là màu  sắc của những gì quý giá,  sang trọng, oai nghiêm.  Tất cả cảnh vật,  màu sắc, ánh sáng đã tạo nên không khí linh thiêng của cảnh chùa.  Đã thế, trong những buổi lễ bái,  đèn nến, khói hương là ánh sáng nhân  tạo được  đặt xen  kẽ các  bức tượng,  khiến cho không gian trong chùa bừng lên thứ ánh sáng màu vàng của lễ nghi.  Phân tách kiến trúc và điêu  khắc trong chùa, thường nói đến tính hướng nội và  tính hướng ngoại. Một bên là  kiến trúc, một bên là điêu khắc.  Hai mặt đối lập  nhau. Nếu không gian  bên trong kiến trúc nội thất  của chùa có tính hướng nội,  do cách bài trí tượng thờ, thì  điêu khắc lại  có tính hướng  ngoại, do khả  năng chiếm không gian ba chiều trên bề mặt của mọi vật bài biện. Mối quan hệgiữa kiến trúc và điêu khắc được  giao hoà giữa tính hướng nội và hướng ngoại đó.  Nói tóm lại, trong chùa Việt Nam, điêu khắc trong chùa tương xứng với kiến trúc,  do ảnh hưởng của không gian,  ánh sáng, trang tríđồ tượng.  Tất cả ảnh  hưởng đến tâm  lý cảm thụ  tầm mắt của con người.


Khi ảnh hưởng của tôn giáo vào nước ta thì những hình thức trang trí cũng được áp dụng, chọn lọc khá tinh tế. Chẳng hạn như ảnh hưởng của Ấn Độ, Trung Hoa, Chiêm Thành. Nghệ thuật Ấn Độ không chỉ là đồ án dùng hình dáng những loài cầm thú, mà thể loại được bao trùm nhiều hình ảnh khác. Vì quan niệm vạn vật nhất thể, mà trong nghệ thuật Ấn Độ đã đưa vào những hình vật như voi, ngựa, rồng, hươu, khỉ, rắn… mà người phương Tây ít khi nghĩ đến. Khi  những ảnh hưởng sang nước ta thì những thể loại cách điệu như thế  vẫn còn nguyên. Trung Hoa cũng vậy. Khi nền văn minh Phật Giáo truyền sang Trung Hoa, thì những nghệ sĩ của nước nầy bổ sung vào kho tàng vă