Trang chủ Nghiên cứu Đạo nghĩa vợ chồng theo quan điểm Phật giáo

Đạo nghĩa vợ chồng theo quan điểm Phật giáo

116

Theo Đức Phật, có hai thứ hạnh phúc, hạnh phúc thế gian và hạnh phúc xuất thế1. Đức Phật không hề chối bỏ hạnh phúc thế gian. Ngài cho rằng, việc mưu cầu và thụ hưởng hạnh phúc một cách chính đáng là lý tưởng sống của người cư sĩ2.

Có được một gia đình thuận thảo, thương yêu, với điều kiện sống tương đối đầy đủ, với các mối quan hệ khả ái, biết hướng thượng, vươn lên… đó là mơ ước của bất cứ một con người bình thường nào, và ở đây, Phật gọi đó là hạnh phúc. Trong những điều kiện căn bản của hạnh phúc, thì quan hệ hôn nhân và những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ hôn nhân, mà ở đây gọi là đạo nghĩa vợ chồng, là một trong những yếu tố nổi trội và quan trọng hơn cả.

Cơ sở của quan hệ hôn nhân

Hôn nhân là sự tự nguyện đến với nhau do bởi yêu thương nhau, gắn bó với nhau, sống không thể thiếu nhau giữa hai cá thể. Đọc lại những vần kệ chứa chan yêu thương của một thiên tử được ghi chép trong kinh điển, đủ thấy tình yêu quả là kỳ lạ, thậm chí là điên dại, phi thường: Ôi Suriya Vaccasa/ Ta đảnh lễ Timbaru/ Bậc phụ thân của nàng/ Ðã sanh nàng thiện nữ/ Nguồn hạnh phúc của ta/ Như gió cho kẻ mệt/ Như nước cho kẻ khát/ Nàng là tình của ta/ Như pháp với Ứng Cúng/ Như thuốc cho kẻ bệnh/ Như đồ ăn kẻ đói/ Thiên nữ với nước mắt/ Hãy dập tắt lửa tình!/ Như voi bị nắng thiêu/ Tẩm mình hồ nước mát/ Có cánh sen, nhụy sen/ Cũng vậy, ta muốn chìm/ Chìm sâu vào ngực nàng/ Như voi bị xiềng xích/ Hất móc câu, gậy nhọn/ Ta điên vì ngực nàng/ Hành động ta rối loạn/ Tâm ta bị nàng trói/ Di chuyển thật vô phương…/ Như người tu sung sướng/ Chứng Bồ-đề tối thượng/ Kiều nữ, ta sung sướng/ Ðược nhập một với nàng/ Nếu Thiên chủ Sakka/ Cho ta một ước nguyện/ Ta ước nguyện được nàng/ Vì ta quá yêu nàng.3

Đứng trước ngưỡng cửa hôn nhân, dù con trai hay con gái thì ai cũng mong mỏi rằng muốn thấy mặt nhau trong đời này, và cũng muốn thấy mặt nhau trong đời sau4. Do bởi mong muốn đó, mà duyên nghiệp vợ chồng được định hình, không phải một kiếp mà có thể kinh qua vô số kiếp. Đó cũng là điều dễ hiểu để lý giải tại sao có những đôi lứa thương nhau vài năm rồi mới cưới, hoặc có những lứa đôi tuy chỉ mới gặp nhau trong thoáng chốc nhưng tình cảm đã nhanh chóng thăng hoa. Nói theo ngôn ngữ thời nay thì tình cảm theo dạng thứ hai được gọi là tình yêu sét đánh (love at first sight).

Cũng gần tương tự như thế, kinh ghi: Phái nữ nhìn phái nam hết sức kỹ lưỡng, phái nam nhìn phái nữ hết sức kỹ lưỡng. Vì họ nhìn nhau kỹ lưỡng như vậy nên tình dục khởi lên, ái luyến đối với thân thể bắt đầu5. Ở đây, tuy không thể đi sâu phân tích về giá trị, về sự tương đồng hay dị biệt của hai loại tình cảm vừa nêu, nhưng điều dễ dàng nhận thấy, sự liên hệ gắn kết giữa hai cá thể mà nôm na gọi là vợ chồng, cũng nằm trong sự chi phối và vận hành của nghiệp. Vì lẽ, các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu6.

Cụ thể hơn, sự phân định ranh giới giữa nam và nữ cũng như sự lôi cuốn, hấp dẫn lẫn nhau giữa các cá thể cũng do bởi sự chi phối của dòng nghiệp lực. Ở nghĩa giản đơn nhất, tất cả mọi tư duy, toan tính, lời nói, việc làm… của con người đều có thể gọi chung là nghiệp. Với Phật giáo, nghiệp không phải tất định, vì mỗi cá nhân có thể thay đổi hoặc cải thiện, chuyển hóa nghiệp bằng chính nỗ lực của riêng mình. Cũng vậy, đành rằng đến với nhau là do duyên nghiệp, nhưng mỗi cá nhân hoàn toàn tự chủ để xây dựng một mô thức hạnh phúc theo tiêu chuẩn chung; hoặc có thể tự do chấm dứt, nếu như mối quan hệ hôn nhân kia không đem đến hạnh phúc cho cả hai người. Vì như kinh đã dẫn, con người vốn dĩ là chủ nhân của nghiệp.

Nền tảng của hôn nhân bền vững

Kết quả của hôn nhân phải là hoa trái hạnh phúc. Muốn giữ gìn hạnh phúc, thì quan hệ hôn nhân phải ổn định và vững bền. Theo Đức Phật, để bền vững trong hôn nhân, ít nhất phải có một sự tương đồng về nhiều mặt giữa hai đối tượng, cũng như việc thực hiện chu toàn vai trò và trách nhiệm của mỗi bên liên quan.

 

1. Sự tương đồng giữa hai cá thể

 

Tương đồng là sự giống nhau. Theo kinh Tăng chi, muốn có một quan hệ hôn nhân bền vững thì ít nhất phải có bốn sự tương đồng7. Tương đồng về nhận thức, tương đồng về niềm tin, tương đồng về chuẩn mực đạo đức và tương đồng về lòng thí xả, vị tha.

Thứ nhất, tương đồng về nhận thức. Nhận thức được hiểu ở đây là vốn tri thức căn bản trong cuộc sống bình thường. Đó có thể là tri thức về đối nhân xử thế, có thể là tri thức về văn hóa sống đặc thù của vùng miền, và có thể là vốn sống, kinh nghiệm ứng xử, sự thấu hiểu tận tường lẫn nhau… và con đường kiện toàn tri thức ấy không nhất định phải thông qua trường lớp. Ở đây, nếu như quá khác biệt về tri thức thì đôi khi dễ tạo ra sự gập ghềnh và thậm chí hiểu lầm trong nhận thức của nhau. Những giận hờn vô cớ, những cãi vã cỏn con… đôi khi xảy đến trong gia đình phần lớn đều bắt nguồn từ sự không thấu hiểu nhau cặn kẽ. Một đôi lứa lý tưởng là đôi lứa phải hiểu rõ về nhau, hiểu thật nhiều, biết sẻ chia hoặc tìm cách kiện toàn tri thức, vốn sống cho nhau, vì đó là điều kiện cần của hạnh phúc. Ở đây, thông điệp mà Đức Phật muốn gửi đến các đôi lứa yêu nhau: khi hiểu nhau thật nhiều thì tình thương yêu sẽ lâu bền và vững chãi.

Thứ hai, tương đồng về niềm tin. Niềm tin ở đây cụ thể là niềm tin tôn giáo. Có cùng một tín ngưỡng là điều kiện lý tưởng cho lứa đôi. Bởi lẽ khi cùng một niềm tin tôn giáo, thì cả hai dễ gần nhau, hiểu nhau và dễ thống nhất với nhau về các giá trị sống liên quan như: quan niệm về đạo đức, quan niệm về lối sống, xu thế nội tâm, và thậm chí là cách thức vươn lên làm giàu… Mặc dù thực tế Phật giáo đã có những giải pháp thông thoáng trong quan niệm về hôn nhân khác tôn giáo, nhưng ở đây, với một con người bình thường, với năng lực bình thường, thì điều kiện tốt nhất cho một quan hệ hôn nhân bền vững chính là cùng một niềm tin tôn giáo. Cùng một niềm tin còn được hiểu là sự khẳng định và tin tưởng một cách sâu sắc ba ngôi Tam bảo, cũng như các giá trị thực nghiệm trong Phật giáo.

Thứ ba, tương đồng về chuẩn mực đạo đức. Đạo đức được hiểu ở đây là nguyên tắc sống, là chuẩn mực giới hạnh mà con người tự nguyện tuân theo. Theo Phật giáo, có năm chuẩn mực đạo đức căn bản, nhằm hỗ trợ đời sống hiện thực và thăng hoa khả năng tâm linh cho người cư sĩ tại gia. Năm tiêu chuẩn sống căn bản ấy được hiểu như: không phương hại tha nhân và hạn chế đến mức thấp nhất sự sát hại sinh vật; thứ hai là không tham lam, trộm cắp; thứ ba là chỉ một vợ một chồng; thứ tư là không nói dối; và cuối cùng là không sử dụng quá mức các chất gây nghiện như rượu bia và các chất kích thích như ma túy… Năm tiêu chuẩn đạo đức này nếu được thực thi trọn vẹn, thì không những bảo hộ cho đời sống lứa đôi mà còn bảo hộ cho bản thân, cho tha nhân và cho xã hội. Và như vậy, có thể thấy, sự tương đồng về các chuẩn mực đạo đức này, là một trong những yếu tố quan trọng để tạo nên một mối quan hệ hôn nhân bền vững.

Sự tương đồng cuối cùng, tương đồng về lòng thí xả, vị tha. Ở đây, nói theo ngôn ngữ kinh văn là biết phóng xả, bố thí. Trong sự quản lý và sử dụng tài sản, Phật dạy hàng cư sĩ phải biết vận dụng khéo léo tài sản mà mình sở hữu để xây dựng hạnh phúc cho bản thân cũng như tạo ra những phước quả trong hiện tại hoặc đời sống vị lai. Một trong những cách sử dụng tài sản có hiệu quả trong việc thực hành sự thí xả, vị tha là phải biết sử dụng tài sản giúp cha mẹ, giúp vợ con, người phục vụ, người làm công và bạn bè thân hữu8 và đối với các bậc phạm hạnh bề trên thì phải biết hiến cúng cho các vong linh quá khứ, hiến cúng cho vua, hiến cúng cho chư thiên9.

Trong thực tế, đã có những người chồng hoặc người vợ quá mực chi li trong việc sử dụng tài vật, dù đó là nhu cầu chính đáng của bản thân, gia đình hoặc giúp đỡ những người liên quan. Đấy là một trong những nguy cơ tạo nên sự trắc trở, gập ghềnh trong quan hệ ứng xử của đời sống thế tục. Một gia đình thực sự hạnh phúc khi cả người vợ và chồng đều thực sự rộng rãi, không đắn đo quá nhiều đối với những việc chi tiêu cần thiết cũng như các việc thiện cần phải làm trước mắt. Do vậy, hãy làm lành/ Tích lũy cho đời sau/ Công đức cho đời sau/ Làm hậu cứ cho người10. Trong quan hệ hiện tại, một tâm hồn rộng rãi thì luôn được mọi người thương yêu; trong liên hệ nhân quả sâu xa thì việc giúp người khốn khó hay cúng dường các bậc phạm hạnh sẽ đem đến cho lứa đôi một phước quả tối thắng.

2. Bổn phận của lứa đôi

Có được hạnh phúc khi sống chung là cả một nghệ thuật sâu sắc và tế nhị. Nghệ thuật đó được khởi đầu bằng sự phân định rõ ràng và thực hiện trọn vẹn trách nhiệm của mỗi bên liên quan.

Bổn phận của người chồng: Tạo dựng tài sản để nuôi sống gia đình là trách vụ chủ yếu của người chồng lý tưởng được Phật dạy trong kinh. Một nam cư sĩ theo tiêu chuẩn thời xưa là phải “đầy đủ sự tháo vát”11, nghĩa là phải làm bất cứ nghề nghiệp gì, miễn làm sao tạo dựng được tài sản để có thể đem lại an lạc cho mình, đem lại an lạc cho cha mẹ, đem lại an lạc cho vợ con, đem lại an lạc cho người phục vụ, cho người làm công, đem lại an lạc cho bạn bè thân hữu; đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn, thiết trí các sự cúng dường hướng thượng. Ngày nay, do sự biến dịch và phát triển của xã hội, trách vụ đó có phần nhẹ hơn, vì người vợ đã có những nỗ lực của bản thân để cùng chung lo cho kinh tế gia đình. Mặc dù vậy, về cơ bản, bổn phận tạo dựng tài sản của người chồng để nuôi sống gia đình vẫn mang ý nghĩa thời đại, và nếu như cả chồng và vợ cùng chung lo kinh tế, thì đó là dấu hiệu sung mãn của một gia đình.

Chia sẻ trách nhiệm nuôi con, dạy con và bảo hộ con cái là một trách vụ quan trọng đứng thứ hai sau việc tạo dựng tài sản. Theo suy niệm thường tình, việc nuôi dạy con cái phần lớn do người phụ nữ đảm trách. Mặc dù vậy, việc sẻ chia trách nhiệm trong việc nuôi con, dạy con, chứng tỏ sự trưởng thành lớn của một người nam cư sĩ. Ngay như bản thân Đức Phật, tuy hướng La Hầu La xuất gia với ngài Xá Lợi Phất, nhưng những khi có thể, Ngài đã tùy nghi dạy bảo cũng như bảo hộ La Hầu La, theo nghĩa rộng nhất. Một lần, theo thiết định của giới luật, La Hầu La phải nhường chỗ cho các thầy lớn tuổi và phải ở tạm trong nhà vệ sinh. Biết tin, Đức Phật đã đến tận nơi và bảo La Hầu La tạm thời vào ở cùng phòng với mình12. Điều đó đủ thấy việc bảo hộ con trẻ luôn được Đức Phật chú trọng, quan tâm.

Một ông bố điển hình cho việc sẻ chia trách nhiệm nuôi con là vua Tần Bà Sa La, cha của hoàng tử A Xà Thế. Theo Maha Thera Narada trong Đức Phật và Phật pháp, hoàng tử A Xà Thế bị mụt nhọt ở tay, Tần Bà Sa La ngậm mụt nhọt để con đỡ đau nhức và để dễ ngủ. Ai ngờ ung nhọt vỡ ra, sợ con tỉnh giấc, vua cha đành phải nuốt cả hỗn hợp máu mủ gớm ghiếc ấy vào lòng. Khi nghe mẫu hậu Vi Đề Hy kể lại tình thương vĩ đại của vua cha Tần Bà Sa La, trái tim hôn ám của A Xà Thế đã được đánh thức, để cuối cùng, A Xà Thế đã sám hối với Phật về tội giết cha13. Vì con, người cha đúng nghĩa sẽ làm những việc khó làm, và như vậy, chính là đã san sẻ trách nhiệm bảo hộ và nuôi dạy con cái.

Trong tám nguyên nhân làm suy yếu gia đình được Phật dạy trong kinh Tương ưng thì nguyên nhân gần gũi và trực tiếp nhất là trong gia đình khởi lên kẻ phá hoại gia đình, người ấy phân tán, phá hoại, làm tổn hại (vikirati vidhamati viddhamseti14). Tuy kinh không nói rõ người ấy là ai, nhưng theo ngữ cảnh kinh văn, ta có thể hiểu đó là người chồng. Ở đây, người chồng lý tưởng cần phải biết trang nghiêm tự thân, nói theo ngôn ngữ kinh văn là biết sống bảo hộ bản thân, bảo hộ gia đình và tài sản. Một người sống có trách nhiệm với bản thân tất sẽ có trách nhiệm với gia đình và cộng đồng, xã hội. Về phương diện bảo hộ bản thân, bảo hộ tài sản, người nam cư sĩ phải tránh xa những thói xấu dễ bị ảnh hưởng như: la cà đình đám hý viện, đam mê các loại rượu, du hành đường phố phi thời, đam mê cờ bạc, giao du ác hữu, quen thói lười biếng. Đây chỉ là sáu trong 36 thói xấu cơ bản mà một người đàn ông dễ mắc phải trong đời15.

Từ thực tế, những sóng gió xảy ra trong gia đình, phần lớn bắt nguồn từ những tật xấu, mà người đàn ông phần lớn là kẻ đi đầu. Theo khảo sát của riêng cá nhân, nguyên nhân rạn nứt của các gia đình đều có liên hệ đến sự xuất hiện của người thứ ba, thì ở đây, chuẩn mực đạo đức một vợ một chồng, đóng vai trò quan trọng. Hơn thế nữa, đời sống vốn dĩ đã bất an, và thực sự càng bất an hơn khi bản thân bị lệ thuộc hoặc nằm trong sự chi phối của rượu, bia. Không túy lúy say sưa được xem như phương thức tồn tại tối ưu trong thời đại ngày nay. Một người nam cư sĩ chỉ cần sa đà vào một trong các thói xấu ấy, hạnh phúc gia đình sẽ có nguy cơ tuột khỏi tay bạn và chắp cánh bay xa.

Một trách vụ nhằm giữ lửa hạnh phúc lứa đôi là người chồng phải tôn trọng và khéo léo chiều chuộng người thương của mình. Tiêu chuẩn tôn trọng và chiều chuộng vợ có vẻ như không lạ lùng trong thời đại ngày nay, nhưng ở thời xưa, đó là điều cách mạng. Vì ở xã hội Ấn độ thời cổ, người phụ nữ có một vị trí khá khiêm nhường16. Kính trọng vợ, không bất kính đối với vợ17 là động thái tích cực được khẳng định trong kinh. Ở đây, không bất kính với vợ còn được hiểu là tôn trọng tất cả những người thân liên quan đến vợ như cha mẹ vợ hoặc những người thân bên ngoại. Không chỉ dừng lại ở đó, một người chồng lý tưởng phải biết mua cho vợ những nhu yếu phẩm cần dùng và những vật dụng mà nàng ưa thích. Vì một lẽ hết mực bình thường, sau khi cưới nhau, do sự vận hành của thực tế đời sống, nên sự lãng mạn yêu thương của hai người dễ bị bào mòn theo năm tháng, nếu như không biết cách hâm nóng tình cảm, thì cuộc sống lứa đôi sẽ tẻ nhạt, lụi tàn. Những món quà hợp thời, đúng lúc luôn là niềm hạnh phúc bất ngờ dành cho người vợ thương yêu. Sắm đồ nữ trang cho vợ18 thực sự là một tiêu chuẩn dành cho người chồng lịch lãm, mà giá trị của tiêu chuẩn ấy, vượt khỏi mọi khoảng thời gian. (Còn tiếp)