Với những ngẫu nhiên lạ lùng mang hơi hướng tâm linh giữa mênh mang Yên Tử, năm 1997, chỉ trong vòng 3 ngày đêm lưu lại ở vùng non thiêng, anh đã viết một mạch 63 bài thơ. Về thời gian làm thơ và số lượng bài thơ là một cái sự rất lạ, nhưng không phải là không thể giải thích nổi. Một năm sau đó (1998), những bài thơ này đã được tác giả tập hợp lại và in thành sách có tên Thi Vân Yên Tử. Sau Thi Vân Yên Tử 3 năm, Hoàng Quang Thuận công bố tiếp Ngọa vân Yên Tử, lần này 80 bài, cảm xúc, đề tài và mạch thơ nhất quán với tập thơ trước. Đến năm 2010, anh gộp lại thành một tập thơ 143 bài, lấy tên chung là Thi Vân Yên Tử. Ngày 8.8.202, tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam đã diễn ra Hội thảo “Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên Tử” do Tạp chí Nhà văn – Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức.
Xưa nay thi nhân hành hương về Yên Tử rất nhiều và đề thơ cũng không ít. Cảnh chỉ có một mà tình thì bách tính. Cho nên Yên Tử không ngừng được trùng tu và tôn tạo vừa bằng vật thể vừa bằng phi vật thể. Trong phần phi vật thể phong phú này, người ta nhắc Hoàng Quang Thuận. Trước khi đến Yên Tử, Hoàng Quang Thuận chỉ là một nhà khoa học, sau khi về Yên Tử, anh thành một người say thơ. Đó là một sự lạ phổ biến. Tại sao lạ mà lại còn phổ biến ? Phổ biến là vì cũng có nhiều nhà khoa học làm thơ, nhưng hiếm có ai làm nhiều thơ về Yên Tử như Hoàng Quang Thuận. Lạ nữa là có những nhà khoa học cao hứng xuất thần làm một bài thơ, rồi để đấy, dánh trọn thì giờ cho khoa học; còn Hoàng Quang Thuận, thì sau cái ngày định mệnh ấy, anh vẫn là nhà khoa học đồng thời là một người thơ. Tuy vậy, không nên thần bí hóa khi giải thích các bài thơ của anh. Làm như thế vô tình làm hạ thấp vai trò của chủ thể.
Thi Vân Yên Tử có sự tập trung cao độ về mặt đề tài. Đó là tập thơ hoàn toàn về Yên Tử. Tất cả di tích đều đi vào thơ. Sau những người thợ, có một người thơ. Những người thợ thì vô danh, còn người thơ thì thi hữu danh. Hoàng Quang Thuận công phu, kỹ càng và rung bật không bỏ qua một sự tích nào. Anh làm thơ như người vẽ tranh vậy. Và sau tranh ta bắt gặp hồn người. Thơ anh có đủ yếu tố của thơ thiền, một sự hòa quyện say đắm giữa cảnh, sự và tình. Tất cả tạo nên những bức tranh tôn giáo trầm mặc mà sống động, thanh khiết mà run rẩy. Hoàng Quang Thuận đặt vào đấy tât cả phần hồn, phần cảm của mình, còn chữ nghĩa vẫn là những vật liệu thông thường như chúng ta thường gặp. Hình như anh cũng không để ý lắm đến kỹ thuật, đến cách tân, mà cứ thả bút theo dòng xiết của tâm hồn. Thơ của Hoàng Quang Thuận là những bức tranh đan dệt bằng tâm hồn của một nhà khoa học.
Yên Tử là đất kén thơ. Cảnh thì đẹp thế. Người thì vĩ đại thế. Cảnh ấy, Người ây, thiêng liêng ấy không chấp nhận cho bất cứ ai đến đó để lưu danh bằng sự xoàng xĩnh. Cho nên thi nhân đến Yên Tử phải rụt rè, so bút là phải. Hoàng Quang Thuận biết rõ điều này, anh không đặt cho mình cái nhiệm vụ đến đó để so tài với các thi nhân về câu chữ. Anh làm thơ như là kẻ vâng lệnh của tâm hồn, của lòng thành thực. Và vì thành thực, anh đã chạm đến thơ. Làm thơ cũng giống như một cuộc hành lễ, trong muôn lễ vật thì sự thành thực là lễ vật cao nhất.
Thi Vân Yên Tử nói được tình cảm chung của những người hành hương là nâng nưu, tôn kính. Hoàng Quang Thuận nói về cây về mây về rêu về đá… xúc động như nói về con người. Bởi anh xem mọi vật ở đây là một mảnh tâm linh của Phật, đã được Phật hóa thân. Tôi chăm chú đọc lại nhiều lần bài Am xưa và lưu giữ mãi cái dư vị của nó.