Trang chủ Văn hóa Chùa Việt Nam Chùa Dục Khánh – nơi ra đời của vua Lê Thánh Tông

Chùa Dục Khánh – nơi ra đời của vua Lê Thánh Tông

213

Khu di tích này thuộc phường Văn Chương, quận Đống Đa, Hà Nội.

Vào giữa thế kỷ 15, cả triều đình và dân chúng kinh thành Thăng Long phải trải qua một phen náo động. Mấy tháng trước Nghi Dân phản loạn giết chết mẹ con Lê Nhân Tông và cướp lấy ngôi. Các vị đại thần trung thành rất bất bình, đã bí mật tổ chức lực lượng xông vào cung cấm, giết chết Nghi Dân để trừng trị kẻ phản nghịch. Cần phải lập ngay vua mới để an lòng thiên hạ và để cai trị đất nước nhưng các hoàng tử hiện có trong cung còn nhỏ nên việc lựa chọn vua mới là vô cùng khó khăn.

Bàn bạc trong triều, có người nhớ ra rằng vua Thái Tông trước đây còn có một người con trai nữa. Người ấy là con bà Ngô Thị Ngọc Dao tên là Lê Tư Thành.

Nguyên là trước đây vua Lê Thái Tông có nhiều vợ song lại chậm có con. Trong số các bà vợ của vua, có bà Ngô Thị Ngọc Dao là có mang sớm hơn cả. Một bà phi khác thấy vậy, sợ rằng Ngọc Dao đẻ con trai trước sẽ được nối ngôi, con mình đẻ sau sẽ không có địa vị gì, mà mình cũng mất ngôi quốc mẫu.

Chua Duc Khanh noi ra doi cua vua Le Thanh Tong

Ban thờ trong chùa Dục Khánh

Bà Phi liền tìm cách đổ tội cho bà Ngọc Dao khiến nhà vua đầy bà Ngọc Dao ra tận An Quảng. Nguyễn Trãi do có thân tình với họ Ngô nên tìm cách giúp đỡ, ông nói với Nguyễn Thị Lộ vào xin với vua không bắt bà Ngọc Dao đi đầy mà chỉ bắt rời khỏi cung cấm. Nhờ người giúp, bà đêm khuya trốn ra và nương náu ở chùa Dục Khánh thuộc làng Huy Văn cổ. Ngô Thị Ngọc Dao sinh con ở đó và cậu bé được đặt tên là Lê Tư Thành, chính là vua Lê Thánh Tông sau này. Có cả một giai thoại về tài năng của Lê Tư Thành khi được mời về cung để lên ngôi.

Trong một thời gian dài ít được mọi người biết đến, Lê Tư Thành chỉ sống loanh quanh trong chùa đồng thời vẫn phải đề phòng những kẻ có âm mưu ám hại. Đã có không ít người nghi hoặc về nguồn gốc cũng như tài năng của Tư Thành.

Mấy vị đại thần được cử đến chùa Dục Khánh để đón Tư Thành đã nghĩ ra một mẹo để xem chàng thanh niên này có “dáng” làm vua không. Đến chùa Dục Khánh mời Tư Thành ra, có người chỉ ngay vào một con cóc bên xó tường và yêu cầu hoàng tử làm bài thơ vịnh. Lê Tư Thành không cần suy nghĩ, ung dung đọc ngay:

Chua Duc Khanh noi ra doi cua vua Le Thanh Tong

Điện Huy Văn

Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi/Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi/Tắc lưỡi đôi ba con kiến gió/Nghiến răng chuyển động bốn phương trời”.

Không biết cậu có ý định đọc thêm nữa không. Chỉ nghe nói các vị đại thần mới chỉ nghe đến bốn câu đó thôi đã… quỳ cả xuống trầm trồ:

–  Thật là khẩu khí của bậc đế vương. Xin kính mời điện hạ về cung ngay để lên ngôi hoàng đế. Sau khi lên ngôi, vua Thánh Tông cho sửa chùa Dục Khánh để ghi nhớ nơi mình sinh trưởng.

Năm 1496, sau khi Thái Hậu mất, vua Lê Thánh Tông đã tôn thân mẫu làm Quang Thục Hoàng thái hậu và cho tạc tượng, đúc chuông thờ tại điện Huy Văn. Tượng và chuông sau này bị kẻ gian lấy mất. Đến năm Vĩnh Trị thứ 3, thứ 4 (1678 – 1679), nhà chùa đứng ra khuyến hóa đúc được tượng và chuông khác.

Trải qua thời gian, cuối Lê, rồi đầu Nguyễn, chùa bị hư hại nhiều. Những người dòng dõi nhà Lê có góp tiền của sửa chùa năm Minh Mệnh thứ 4 (1823). Đến năm Tự Đức thứ 17 (1864) chùa lại được tu sửa. Pho tượng của vua Lê Thánh Tông, nguyên trước đặt ở chùa Khán Sơn (trong khu Bách Thảo ngày nay), đến cuối triều Lê, khi quân Tây Sơn ra Thăng Long, có toán loạn quân phá chùa Khán Sơn, người ta mới rước về nơi đây để thờ.

Hiện nay trong điện Huy Văn có ba khán thờ tượng vua Lê Thánh Tông (chính giữa), Thái hậu Quang Thục (bên phải) và hoàng hậu Trường Lạc (vợ của vua Lê Thánh Tông ở bên trái).

Ngay trước cổng chùa Dục Khánh, còn có một tấm bia đá đề “Trùng tu Huy Văn điện bi ký” dựng năm 1823. Xưa kia, cứ đến ngày vua băng hà, làng Văn Chương tổ chức tưởng niệm trọng thể, rước kiệu lên đền vua ở phố Hàng Hành. Ngày 26 tháng 2 âm lịch hàng năm, ngày mất của Quang Thục Hoàng Thái hậu, làng lại tổ chức cúng lễ rất linh đình.

Sự tồn tại của chùa Dục Khánh và điện Huy Văn, mặc dù có sự biến đổi theo thời gian nhưng chính trên mảnh đất này đã sinh ra và nuôi dưỡng một trong những vị vua tài hoa bậc nhất của nước Đại Việt ta xưa kia. Quần thể di tích này đáng được coi trọng và phát huy giá trị lịch sử của nó nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.