Ngoài cái tên chùa Dâu, ngôi chùa này còn được người dân nơi đây gọi với nhiều cái tên đặc biệt khác như: Chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên Ứng tự, Thiền Định tự. Theo tìm hiểu, chùa Dâu có lịch sử hình thành sớm nhất ở Việt Nam, mặc dù các dấu tích vật chất hầu như không còn, vì đã được xây dựng lại.
Năm 2013, chùa Dâu được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt. Ngôi chùa không chỉ là một công trình có giá trị về mặt lịch sử văn hóa tín ngưỡng tôn giáo, mà còn có ẩn chứa cả một quá trình phát triển của nền kiến trúc cổ Việt Nam và được xem là ngôi chùa cổ nhất của cả nước.
Theo sử sách ghi lại, chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy lâu – thủ phủ của phật giáo khi mới truyền bá vào Việt Nam. Tại vùng Dâu có năm ngôi chùa cổ: Chùa Dâu thờ Pháp Vân (法雲寺, “thần mây”), chùa Đậu thờ Pháp Vũ (法雨寺, “thần mưa”), chùa Tướng tờ Pháp Lôi (法雷寺, “thần sấm”), chùa Dàn thờ Pháp Điện (法電寺 “thần chớp”) và chùa Tổ thờ Man Nương là mẹ của Tứ pháp.
Năm chùa này ngoài thờ Phật còn thờ Tứ Pháp – các vị Tứ Pháp vừa là Phật, vừa là Bồ Tát vừa là thần, lại mang nữ tính. Vì vậy, tín ngưỡng Tứ pháp là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian qua câu chuyện nhà sư Ấn Độ và cô gái Man Nương. Những nữ thần nông nghiệp của người Việt cổ đã được Phật giáo hóa trở thành những vị Phật Bà – để cầu mong mưa thuận gió hòa, sự sinh sôi nẩy nở của vạn vật.
Theo đó, thì chùa Đậu tại vùng Dâu đã bị phá hủy trong chiến tranh nên pho tượng Bà Đậu được thờ chung trong chùa Dâu.
Trong Tứ pháp thì Pháp Vân đứng đầu, Thạch Quang Phật (tảng đá trong cây Dung thụ) luôn ở bên Pháp Vân và Pháp Vân đại diện cho cả Tứ pháp, mỗi khi triều đình thỉnh tượng về kinh đô cầu đảo, có thể rước cả bốn tượng hoặc chỉ mình Pháp Vân. Có thể nói Tứ pháp thì Pháp Vân, Pháp Vũ được thờ cúng rộng rãi hơn cả nhưng Pháp Vân là trọng tâm, nên chùa Dâu đã trở thành trung tâm của tín ngưỡng ở cả vùng Dâu lẫn cả nước.
Nhà Tiền đường gồm 7 gian, 2 chái. Trước nền nhà là bậc tam cấp. |
Chùa được xây dựng vào buổi đầu công nguyên, khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226. Các nhà sư Ấn Độ đầu tiên đã từng đến đây. Vào cuối thế kỷ VI (501 – 600) một thiền sư người Ấn Độ, từng sang Trung Quốc tham học và là môn đệ đắc pháp của Tam tổ Tăng Xán. Cuối đời ông xuống phương Nam truyền pháp và được tôn xưng là Tổ khai sáng thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi tại nước ta.
Chùa Dâu được xây dựng lại vào năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ. Thời Vua Trần Anh Tông đã sai Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp. Hiện nay, ở tòa thượng điện, chỉ còn sót lại vài mảng chạm khắc thời nhà Trần và nhà Lê.
Cũng như nhiều ngôi chùa cổ hiện nay, chùa Dâu được xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao quanh ba ngôi nhà chính: Tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Tiền đường của chùa Dâu đặt tượng Hộ Pháp và tám vị Kim Cương. Gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam Châu Thái Tử, Mạc Đĩnh Chi. Thượng điện để tượng Bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ), và các hầu cận. Các pho tượng Bồ Tát, Tam Thế, Đức Ông, Thánh Tăng được đặt ở phần hậu điện phía sau chùa chính…”.
Khu vực nối Tiền thất và Hậu đường là nơi thờ Thập bát La Hán (18 đệ tử đắc đạo của Phật đã tu đến cảnh giới La Hán). |
Có lẽ, ấn tượng trong lòng mỗi du khách thập phương khi đến thăm ngôi chùa này đó là hình ảnh những pho tượng thờ, bởi sự uy nghi, trầm mặc mà các pho tượng này mang lại.
Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi – tượng được đặt trên một bệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên đại thế kỷ XIV.
Quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817 được treo trong tháp tại chùa Dâu. |
Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ “Hòa Phong tháp”. Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7m. Tầng dưới có 4 cửa vòm. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6m ở 4 góc.
Biểu tượng linh thú trong chùa Dâu là hình ảnh tượng cừu được làm bằng đá dài 1,33m, cao 0,8m. |
Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33m, cao 0,8m. Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán.
Hội chùa Dâu được tổ chức vào ngày 8/4 Âm lịch hàng năm, đây là lễ hội lớn của cả tổng Dâu xưa và Bắc Ninh ngày nay với quy mô lớn, long trọng mang nhiều nét văn hóa truyền thống độc đáo.
Dân gian vẫn có câu: Dù ai đi đâu về đâu/ Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về!/ Dù ai buôn bán trăm nghề/ Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu!
Vừa qua, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã ký Quyết định số 73/QĐ-TTg ngày 18/01/2024 về việc công nhận 29 Bảo vật Quốc gia (đợt 12, năm 2023). Theo Quyết định, Mộc bản chùa Dâu, niên đại từ năm 1752 – 1859, hiện lưu giữ tại chùa Dâu được công nhận là Bảo vật Quốc gia đợt này.
Trải qua thời gian và sự phong hóa, chùa Dâu đã nhiều lần được trùng tu tôn tạo như: Đại tu toàn bộ các hạng mục công trình, tu sửa tháp Hòa Phong, sơn thếp hệ thống tượng, khôi phục Tam quan, giải phóng mặt bằng phía trước chùa để kè hồ, xây dựng tường bao bảo vệ di tích… nhưng vẻ đẹp, nét cổ kính và giá trị về mặt kiến trúc, văn hóa tín ngưỡng tâm linh mà ngôi chùa mang lại vẫn trường tồn cùng thời gian và trở thành nơi hành hương của nhiều phật tử khi đến với Kinh Bắc – Bắc Ninh ngày nay.