Trang chủ Đời sống Nghệ thuật sống Các nguyên tắc cơ bản của sự hiểu biết bản thân

Các nguyên tắc cơ bản của sự hiểu biết bản thân

Và hơn nữa, bạn sẽ nhận thấy rằng tất cả chúng ta đều có xu hướng tự nhiên và cố hữu là tự dối mình.

Hình như mỗi chúng ta theo cách thường tình đều có “ý thức về bản ngã", một niềm tin không hợp lý rằng ta là một bản ngã hoặc cái tôi riêng biệt, độc nhất và tách rời khỏi phần còn lại của đời sống.

Trong một số trường hợp, bạn nhận thấy một người có ý thức về bản ngã mạnh mẽ tới mức anh ta thấy cần thiết bằng mọi giá cảm nhận sự đúng đắn của mọi việc anh ta làm, mọi điều anh ta nói, cũng như sự đúng đắn của mọi cái anh ta sở hữu. Khi anh ta có thể cảm thấy sự đúng đắn đó (và phần nhiều đó là sự đúng đắn không thật), lúc ấy anh ta cảm thấy hợm hĩnh. Khi anh ta không thể cảm nhận sự đúng đắn đó, anh ta cảm thấy thua kém và không xứng; và như vậy anh ta nhiễm các loại khuynh hướng phức cảm và loạn thần kinh.

Vì nhu cầu sai lầm về cảm nhận sự đúng đắn không thật đó, anh ta phải liên tục tự dối mình theo nhiều cách tinh vi khác nhau; anh ta phải nguỵ tạo với mình rằng các động cơ của anh ta là tốt hơn so với thực tế và anh ta phải trấn áp tất cả mọi sự hiểu biết không mong muốn về bản thân và về mọi điều thuộc về anh ta.

Tất cả cái đó chỉ nhằm giữ cho ý thức bản ngã của anh ta nguyên vẹn.

Mặt khác, lại có những người đã thành thực học được cách thừa nhận những khiếm khuyết của mình và cũng thành thực đánh giá các đức hạnh của mình. Số ít người này đã có tiến bộ nhất định trong việc tự hiểu biết bản thân.

Tuy nhiên, đại đa số chúng ta đứng ở đâu đó giữa hai thái cực ấy. Trong khi chúng ta không hoàn toàn thoát khỏi sự tự dối mình, chúng ta vẫn chưa đạt tới sự hoàn toàn tự hiểu biết; vì vậy chúng ta cần khai thác và thực hành một số loại kỹ thuật tâm lý học nhất định hướng tới tăng cường sự tự hiểu biết.

Một trong những khó khăn mà chúng ta nhận thấy là chúng ta ấp ủ một số tình yêu thương và lòng căm ghét phi lý; chúng ta bám lấy các thiên kiến cảm xúc và cố gắng để không mất các phức cảm của mình. Bởi vì chúng ta đã lớn lên cùng với chúng, trở nên gắn bó với chúng. Bằng cách này hay cách khác, những tình yêu thương và lòng căm ghét vô lý này, thiên kiến và phức cảm ấy hình như dựng nên được một hàng rào ngăn cách với điều gì đó mà chúng ta không thích phải đối diện. Hàng rào đó được gọi là "nỗi sợ được khai sáng”.

Nỗi sợ được khai sáng này được thấy ở mức độ lớn hay nhỏ trong tất cả chúng ta ngoại trừ một số ít người đã đạt tới trình độ thành thực đáng kể với bản thân. Như vậy có lẽ là, cùng với đa số người khác, bạn có xu hướng chống lại quá trình phân tích bản thân bởi vì nó đòi hỏi bạn buông bỏ các điều sai trái được quí trọng đó. Bạn kháng cự quá trình thoát khỏi cái mạng rối rắm của sự dính mắc đó.

Tại sao lại như vậy? Tại sao bạn thích tự dối mình hơn tự hiểu biêt mình? Những điều vô lý đó không chỉ đưa đến cho bạn hàng rào ngăn cách với các yếu tố tinh thần mà bạn không muốn đối diện, mà chúng cũng mang lại cho bạn một kiểu tính cách cá nhân, một loại nét độc đáo giúp cho bạn hình thành ý thức là mình khác biệt với những người khác.

Một lý do khác là bạn muốn giữ nguyên vẹn tất cả các khái niệm liên quan tới mọi điều bạn yêu mến. Nếu bạn đưa bất kỳ một trong những khái niệm mang nặng cảm xúc của bạn ra cho sự phân tích bản thân khảo sát kỹ lưỡng, bạn có thể phải sửa đổi nó, và khi sửa đổi có thể bạn cần phải nỗ lực. Sẽ thoải mái hơn nhiều khi cứ để mọi thứ nguyên như vậy.

Với những điều bạn căm ghét hoặc không thích cũng gần như y hệt; nếu bạn đưa các khái niệm của bạn về những điều ấy ra ánh sáng trong trẻo mạnh mẽ của sự tự vấn, có thể bạn phải chứng minh rằng bạn sai, và từ bỏ hận thù và căm ghét đòi hỏi rất nhiều sự điều chỉnh. Lại nữa, cứ để mọi thứ nguyên như hiện trạng thì dễ chịu hơn.

Sự tự phân tích đôi khi có thế tạm thời rất đau đớn. Vậy thì giá trị của tất cả cái đó là gì? Nếu bạn có thể thực là sung sướng khi không tự hiểu biết bản thân, vậy tại sao phải bận tâm?

Tất nhiên, điều này giống như nói rằng vì bạn hoàn toàn dễ chịu ở trong hang tối của mình, vậy tại sao lại lo lắng xây ngôi nhà có các cửa sổ? Một khi tâm trí của bạn đã được xác lập vững chắc theo thói quen, xu hướng chung của nhận thức trở nên kém nhạy bén và toàn bộ trạng thái tâm lý của bạn trở nên kém thích ứng hơn. Nó có khuynh hướng trở nên lờ phờ và kháng lại sự thay đổi.

Khi đó bạn suy nghĩ xúc cảm hơn – nghĩa là, nhiều chủ quan hơn và ít khách quan hơn. Bạn trở nên bối rối bởi ít nguyên do hơn, óc suy xét của bạn rất giống như bị sút kém, bạn thường hay bị mất tự chủ hơn, và sự tự kiểm soát của bạn dễ bị sụp đổ. Tất cả xảy ra khi bạn thích thú tự không hiểu biết hơn tự hiểu biết bản thân.

Vậy thì cái gì là cần để phá tan sự tự dối mình và tăng hiểu biết bản thân? Đạo Phật đưa ra nguyên lý của chánh (chính) niệm.

Bạn sẽ nhận thấy nguyên lý chánh niệm này theo khái niệm thông thường của nó là khá đơn giản; về cơ bản đây là việc phát triển hoặc trau dồi khả năng chú ý bình thường không đặc biệt; nó được áp dụng cho nhiều lĩnh vực kinh nghiệm khác nhau, nhưng đặc biệt nó cần hướng vào nội tâm. Theo ý nghĩa này, chánh niệm có thể được mô tả chủ yếu như tự quan sát mình.

Trong khi theo khái niệm thông thường, nó khá đơn giản là việc trau dồi sự chú ý thì các lĩnh vực trải nghiệm mà bạn có thể áp dụng chánh niệm nhiều tới mức toàn bộ phạm vi hoạt động của chánh niệm rất toàn diện.

Ví dụ, các hoạt động thông thường hàng ngày – như là các hoạt động thuộc công việc, đời sống gia đình, và lúc rảnh rỗi – cung cấp một quy mô rộng rãi cho sự tăng cường tự hiểu biết. Còn về các hành động thông thường của bạn, phương pháp Phật giáo nói rõ rằng bạn cần phải có sự hiểu biết rõ ràng về các động cơ và mục đích của mình. Không có sự hiểu biết rõ ràng đó, bạn có thể cuốn vào dòng trôi dạt thiếu suy nghĩ.

Tất nhiên, bạn biết các động cơ của mình đằng sau nhiều việc làm. Nhưng có thể với một số việc khác thì bạn làm chỉ vì những người khác làm. Nếu vậy, khi tự vấn, bạn sẽ thấy rằng bạn làm những việc đó phần lớn để được sự hoan nghênh của những người bạn giao kết. Tâm trí cảm thấy cần duy trì cảm giác quan trọng và vượt trội và để giữ cho cảm giác quan trọng và vượt trội này nguyên vẹn, nó phải tận dụng sự tự dối mình dưới các hình thức khác nhau. Và để khám phá những động cơ thực sự của mình, bạn phải học cách xuyên thủng sự tự dối mình đó. Khi ấy, sự hiểu biểt rõ ràng về động cơ là một trong những phương diện chính của sự tự hiểu biết.

Có thể là bạn có sự hiểu biết rõ ràng về động cơ chung trong cuộc sống của mình, về mục đích cuối cùng của mình, hoặc có thể là bạn không có ý thức về mục đích và hoàn toàn chẳng có mục tiêu cuối cùng; nhưng một ý thức nào đó về mục tiêu là cần thiết cho sự tiến bộ. Chánh niệm dưới hình thức tự quan sát là một bước tiến trong quá trình đạt tới một mục đích trong cuộc sống và trở nên ý thức được mục đích đó là gì.

Giống như toàn thể loài người nói chung, bạn kế thừa một mớ hỗn độn cảm xúc, một sự tăng trưởng dồi dào và lộn xộn của lòng tham và sân hận tồn tại bên cạnh các thiên hướng cao thượng hơn. Cố gắng tảng lờ các yếu tố xấu xa trong tâm trí là khuynh hướng tự nhiên – dù là tâm lý nghèo nàn- và đây là cách nảy sinh của sự tự dối mình.

Trong các giai đoạn đầu của nó, sự tự dối là sự từ chối thừa nhận các yếu tố xấu xa của tâm trí; nhưng ở một giai đoạn tiến xa hơn, nó có thể trở thành sự bất lực hoàn toàn – hơn sự từ chối có ý thức rất nhiều – trong việc nhìn nhận chúng. Đôi khi tâm lừa gạt chính mình để giữ nguyên vẹn cảm giác về tính đúng đắn và ưu việt, và các thủ đoạn đó giúp cho việc che giấu các động cơ và mong muốn thực của nó.

Đôi khi tâm bóp méo và làm biến dạng những ý nghĩa của các kinh nghiệm; nó tránh các ý nghĩ làm nó khó chịu và phơi bày bản chất của nó ra ánh sáng bất lợi, và nó đánh lạc hướng sự chú ý của mình từ các ý nghĩ không mong muốn sang các ý nghĩ mang các khía cạnh dễ chịu hơn cho nó.

Tâm lý học biết những thủ đoạn này như các cơ chế tinh thần, ví dụ như cơ chế tránh né, làm trệch hướng, và cố định lại.

Một khía cạnh khác của sự tự quan sát có liên quan tới các cảm giác khi chúng được tiếp nhận thông qua các giác quan khác nhau và khi chúng được nhận thức trong tâm đặc biệt về nội dung vui sướng – khổ đau. Vấn đề về cảm giác trong mối liên quan với nội dung vui sướng – khổ đau của nó là sự dính mắc bắt nguồn ở chính cấp độ này và sự dính mắc là nguyên nhân chủ yếu của bất hạnh. Tất cả sự vật trên thế giới thay đổi; tất cả nảy sinh và mất đi; và bạn gắn bó với bất kỳ cái gì càng nhiều, bạn càng đau khổ hơn khi mất nó.

Vì thế, để kiểm soát sự dính mắc, bạn phải canh chừng trước cửa của cảm giác. Khi bạn trở nên nhận thức có phê phán nhiều hơn đối với tất cả kinh nghiệm của mình ở cấp độ cảm giác, bạn học được cách ngăn chặn sự kiểm soát của khoái lạc trong cảm giác này và của đau đớn trong cảm giác khác.

Nghĩa là, thay vì bị những khoái lạc và đau đớn kiểm soát, bạn học được cách trải qua chúng mà không bị chúng quét đi. Khi bạn để cho những khoái lạc và đau đớn ở cấp độ cảm giác chế ngự, đó chính là lúc bạn bị những xúc cảm dễ chịu và đau đớn quét đi; và lúc ấy bạn bị vướng mắc hoàn toàn trong mạng lưới của sự dính mắc. Lúc đó bạn không thể lập luận khách quan và quyết đoán thông minh.

Lúc ấy, bạn có thể thấy rằng đáng mong muốn tập luyện mình để giữ sự canh chừng có phê phán về tất cả các kinh nghiệm của mình ở cấp độ cảm giác, và kịp thời đánh giá có phê phán niềm vui sướng và những khổ đau ở cấp độ ấy. Khi đó, bạn có thể mở rộng sự tự quan sát khách quan đến các yếu tố bắt đầu hình thành trạng thái tinh thần của bạn.

Theo học thuyết Phật giáo, có ba yếu tố tinh thần căn bản trì hoãn sự tiến bộ của tâm. Một trong các yếu tố đó được gọi là mong muốn ích kỷ. Nó tồn tại dưới các hình thức khác nhau như lòng tham và ham muốn chiếm hữu, và một mặt nó có thể dữ dội hoặc mặt khác nó ôn hoà và kín đáo. Yếu tố tiếp theo là sự ác cảm mà ta thấy cả trong cái vỏ tức giận, căm thù, oán giận và cáu kỉnh. Và cái thứ ba được gọi là ảo tưởng; nó cũng xuất hiện dưới các hình thức khác nhau, về nguyên tắc như là sự tự khẳng định và sự tự dối mình.

Sự quan sát trạng thái tinh thần là một hình thức của chánh niệm mà mục tiêu của nó là soi chiếu ánh sáng chói lọi của ý thức vào "những gốc rễ của cái xấu" đó, như chúng được gọi như thế, và vào tất cả các yếu tố tinh thần bắt nguồn từ chúng và có quan hệ với chúng. Những yếu tố đó không chỉ bao gồm tính đố kỵ, tự cao tự đại và keo kiệt mà còn cả tâm cứng nhắc, sự hối tiếc không lành mạnh, và áy náy hoặc lo âu.

Khi nhờ tự xem xét bản thân, bạn trở nên nhận thức được các khuynh hướng có hại đó, dĩ nhiên bạn có nhiều khả năng xử lý chúng hơn và bản thân sự nhận thức rõ rằng chúng tồn tại sẽ luôn hoạt động như một yếu tố kiểm soát.

Tuy nhiên, điều đáng mong muốn là phát hiện và khám phá không những các yếu tố tinh thần bất lợi và trì trệ của bạn mà còn cả những phẩm chất tốt nữa, bởi vì những cái đó cần được nuôi dưỡng và phát triển như là các công cụ của tiến bộ.

****

Tiếp theo, bạn có thể thấy nguyên tắc chánh niệm có thể có ích đối với bạn theo nhiều cách khác nhau; có thể giúp bạn tránh được các cạm bẫy do các khoái lạc và đau đớn của chính mình gài đặt mình và có thể giúp bạn đánh giá sự tiến bộ của mình trong việc đập tan các yếu tố trì trệ trong tâm và trong việc phát triển các yếu tố tiến bộ.

Mặc dù phát triển theo những đường hướng này chủ yếu là vấn đề tự quan sát, và trong khi đây là điều quan trọng tột bậc, nó rất có thể được bổ sung bằng sự quan sát hướng ra bên ngoài. Nói một cách khác, sự quan sát những người khác, cùng với sự hiểu biết thu được từ sự quan sát đó, có thể có giá trị to lớn trong công việc tự quan sát bản thân.

Thật ra là điều này tác động hai chiều; khi bạn quan sát cách cư xử của bản thân mình và nghiên cứu để biết rõ hơn các động cơ của chính mình, bạn thấy cách cư xử đó phản ánh ở những người khác, và những động cơ của họ trở nên rõ rệt hơn đối với bạn. Cũng theo cách đó, khi bạn nghiên cứu để lý giải cách cư xử của những người khác về mặt động cơ của họ (đôi khi chính họ không thấy), thì các động cơ của chính bản thân bạn trở nên rõ rệt hơn đối với bạn.

Như vậy, bạn thấy rằng phương pháp tiếp cận Phật giáo đối với sự tự hiểu biết bản thân là bằng cách chánh niệm, chủ yếu hướng vào bên trong và thứ đến hướng ra bên ngoài; hoặc nói cách khác bằng cách quan sát có phê phán bản thân mình và quan sát một cách sâu sắc nhưng tử tế những người khác.

Minh Nguyệt (dịch)