Trang chủ Văn hóa Chùa Việt Nam Bí tráng & linh thiêng chùa Đá Trắng

Bí tráng & linh thiêng chùa Đá Trắng

158

Sứ mệnh hoàn thành, Lương Văn Chánh được thăng Phụ quốc Thượng tướng quân Phù nghĩa hầu, gia thăng Tiền trấn biên dinh Tham đốc tướng Lương quới phủ phò quận công. Đến khi mất, ông được tặng Phù quốc công Liệt thượng đẳng thần. Đối với Phú Yên, vị khai quốc công thần Lương Văn Chánh trở thành thần hoàng khai sáng.

 

 

Trên bước hành trình khai hoang lập đất, Lương Văn Chánh đã dừng ngựa đóng quân tại Bà Đài, thời vua Minh Mạng được đổi thành Xuân Đài. Từ năm 1611 đến 1899 nơi đây là thủ phủ của tỉnh Phú Yên. Nhiều dinh thự, cơ sở tôn giáo được xây dựng. Nhà thờ Mằng Lăng – nhà thờ Thiên Chúa giáo cổ nhất Phú Yên hiện còn lưu giữ cuốn sách chữ quốc ngữ đầu tiên nước ta: Phép giảng tám ngày của linh mục Alexandre de Rhodes in năm 1651 ở thành cổ Roma. Nhiều ngôi chùa Phật giáo cũng mọc lên, trong đó có chùa Đá Trắng. Ca dao địa phương có câu:

Rủ lên Đá Trắng ăn xoài

Muốn ăn tương ngọt Thiên Thai thiếu gì.

 

Chánh điện chùa Đá Trắng.

Tương truyền, trên đường hành quân đánh nhau với quân Tây Sơn, chúa Nguyễn Ánh đã có dịp thưởng thức và tỏ ra ưa thích xoài Đá Trắng. Vị ngọt thanh của nó không xoài ở đâu có được. Vì vậy, dưới triều Gia Long, cùng với bòn bon Quảng Nam, xoài Đá Trắng của Phú Yên trở thành “Nhị bảo ngự thiện”. Vào dịp Tết Đoan Ngọ hàng năm, tỉnh Phú Yên phải mang dâng nhà vua từ 1.000 đến 2.000 trái xoài.

Kỳ thực, xoài Đá Trắng không nhiều, rất quý hiếm nên có lúc quan huyện lệnh phải cắt cử sai nha canh giữ vườn xoài và ghi chép tỉ mỉ quá trình ra hoa, thụ trái, thu hoạch. Tỉnh Phú Yên còn cử một đội quân chuyên lo vận chuyển xoài ra kinh đô Huế. Xoài được ủ cẩn thận vào giỏ tre lót lá thầu đâu (sầu đông), chở đến Huế thì cũng vừa chín vàng da. Nhà vua sẽ mở tiệc ngự thiện, thưởng thức xoài và chia lộc cho các quan đại thần.

Sư thầy Thích Đồng Quang cho biết, hiện nay giống xoài gốc ở Đá Trắng chỉ còn lại 4 cây, thuộc vào hàng cổ thụ, nằm ở 4 góc chùa, nhưng tới 3 cây đã không còn ra trái, còn một cây năm ra năm không. Số xoài còn lại trong vườn chùa mới trồng sau này là giống từ nơi khác, còn xoài gốc Đá Trắng ươm trồng mãi mà không sống. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phú Yên đang vào cuộc, tìm cách lưu giữ và nhân giống xoài tiến vua quý hiếm.

Chùa Đá Trắng nằm trên đỉnh núi Xuân Đài, sát quốc lộ 1A, đoạn giữa thành phố Quy Nhơn của Bình Định với thành phố Tuy Hoà của Phú Yên. Vào mùa xuân, dòng người về chùa tấp nập nhất. Họ vừa leo dốc vừa hát, từ bài chòi, hò khoan đến vọng cổ. Xoài mùa này cành lá sum suê nhưng không có trái.

Đường lên chùa Đá Trắng lát đá tảng lớn trườn qua con dốc thoai thoải gần 1km, rộng khoảng 4m, xưa vốn nằm trong hệ thống đường thiên lý Bắc – Nam do hai tướng Nguyễn Huỳnh Đức và Lê Chất thời đầu nhà Nguyễn trực tiếp chỉ huy sửa sang. Từ đỉnh dốc có thể phóng tầm mắt bao quát cả vùng sơn thuỷ hữu tình. Xa xa phía đông nam là đầm Ô Loan với mặt nước thản nhiên nổi tiếng trong ca dao. Gần hơn, dòng sông Cái loáng bạc chảy qua cầu Phường Lụa, ôm lấy ngọn núi Sơn Trà sừng sững giữa đồng bằng xanh thẳm. Còn phía nam thấp thoáng lăng mộ anh hùng Cần Vương Lê Thành Phương cùng nằm trên dãy núi Đá Trắng.

 

Toàn cảnh chùa Đá Trắng.

Những khối đá trắng phau bao quanh, tôn thêm vẻ lung linh, kỳ bí của chùa. Tên chữ của chùa là Bạch Thạch tự hoặc Từ Quang tự và Linh Quang tự được tạo lập từ năm Đinh Tị – 1797 dưới triều vua Quang Toản nhà Tây Sơn. Có giả thiết cho rằng sau khi nhà Tây Sơn mất, nhiều quân tướng Tây Sơn đã xuống tóc quy y ở chùa này nhằm tránh sự khủng bố của nhà Nguyễn – Gia Long. Tổ khai sơn là Thiền sư Thích Diệu Nghiêm, phái Lâm Tế đời thứ 36. Năm Nhâm Dần 1842, dưới thời vua Thiệu Trị, chùa được sửa quy mô, có bia ghi chép sự tích. Năm Kỷ Sửu 1889, chùa được vua Thành Thái ban sắc tứ.

Trong chiến tranh, phần chính của chùa bị phá hoại, phải dựng lại nhưng vẫn giữ được nguyên vẹn cổng chùa và khu vườn mộ tháp, thể hiện rõ nét nghệ thuật kiến trúc cổ với hoa văn, phù điêu và tượng thú tinh xảo phong phú. Những phiến đá lát lớn tạo nên đường vào chùa là những viên đá được đẽo khéo léo, công phu với nhiều kiểu dáng khác nhau, cho thấy óc thẩm mỹ lẫn công tích lớn lao của người xưa…

Năm 1885, kinh đô Huế thất thủ. Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi chạy ra Sơn Phòng xuống chiếu Cần Vương. Sĩ tử Phú Yên lập tức bỏ khoa thi năm đó về quê. Ngày 15/8/1885, tại huyện Tuy An, Lê Thành Phương được tất cả nghĩa quân Phú Yên, suy tôn làm thống soái, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa trong toàn tỉnh. Đến tháng 1-1886, vua Hàm Nghi cử sứ thần vào chính thức tấn phong Lê Thành Phương làm Tổng thống quân vụ đại thần của triều đình Cần Vương.

Lê Thành Phương sinh tháng 3/1825, vốn có tiếng thông minh, học giỏi, từng đỗ tú tài, nhưng từ chối chốn quan trường, về quê dạy học và phụng dưỡng cha mẹ. Bà con ở quê hương thường gọi ông là Tú Phương. Uy tín Tú Phương có sức cảm hoá mãnh liệt nhân dân trong vùng. Ông kết giao với nhiều sĩ phu địa phương mà sau này trở thành những cộng sự đắc lực cho mình.

Phái chủ chiến triều đình nhà Nguyễn là các đại thần Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Tri Phương hết sức quí mến, đặt nhiều kỳ vọng vào ông. Công cán ở Phú Yên, Ngô Quang Bích cũng tìm đến thôn trang gặp Lê Thành Phương bàn chuyện quốc sự. Từ Nam Kỳ, Nguyễn Thông cũng bôn ba ra Phú Yên tương ngộ người đồng chí hướng…

Cuối tháng 8/1885, Lê Thành Phương ra lệnh cho Thống tướng kỵ binh Bùi Đáng chỉ huy một cánh quân phối hợp với quân thứ Phù Mỹ thuộc Bình Định tiến ra Quảng Ngãi và Quảng Nam đánh quân của tên phản bội Nguyễn Thân, mở đường liên lạc với phong trào Cần Vương Bắc Trung Bộ. Đồng thời, ông ra lệnh phó soái Bùi Giảng nắm quyền chỉ huy một đạo quân vượt qua Khánh Hoà, tiến vào Bình Thuận nhằm mở đường liên kết phong trào Cần Vương ở tất cả các tỉnh Nam Trung Bộ.

Chỉ trong vòng 4 tháng, dưới sự lãnh đạo của Lê Thành Phương, nghĩa quân Cần Vương đã làm chủ cả một vùng rộng lớn, gây cho thực dân Pháp nhiều thiệt hại. Đỉnh Xuân Đài – nơi toạ lạc chùa Đá Trắng đã trở thành một pháo đài lợi hại. Lê Thành Phương đã cho đặt ở đây hai khẩu thần công đại bác để canh phòng mặt biển, trực tiếp bảo vệ tổng hành dinh đóng cách đó hơn 10km về hướng nam. Chùa Đá Trắng còn là nơi gặp gỡ, hội họp giữa Thống soái Lê Thành Phương với các cấp chỉ huy…

Tuy nhiên, giống như tất cả các cuộc khởi nghĩa của Phong trào Cần Vương, sau gần hai năm dựng cờ lập được một số chiến công, cuộc khởi nghĩa của Lê Thành Phương bị thực dân Pháp và tay sai đàn áp dã man. Trúng kế “điệu hổ ly sơn” của tên Việt gian Trần Bá Lộc, Lê Thành Phương sa vào tay giặc. Trước khi đón nhận đường gươm từ tay đao phủ, ông đã ngẩng cao đầu đọc bài Tuyệt mệnh thi đầy khí phách: “Anh hùng mạc quản doanh do luận – Tổ quốc hà cô sỉ nhục ta!”. Mặt trời lên đúng 10 giờ ngày 20/2/1887 khi đầu ông bay xuống đất!

Hai khẩu thần công ở chùa Đá Trắng cũng chịu chung số phận với chủ soái. Chúng nằm “trơ gan cùng tuế nguyệt”.

 

Miếu thờ Võ Trứ và Trần Cao Vân dưới gốc xoài cổ thụ

“Ngó ra ngoài đỉnh Xuân Đài
Thấy hai ông súng nằm dài giữa truông”

Câu ca như một tiếng thở dài bi hận trước nỗi đau mất nước!

Phong trào Cần Vương thất bại, từ Quảng Nam, Trần Cao Vân đã vào Bình Định gặp Võ Trứ, một cộng sự đắc lực của lãnh tụ Mai Xuân Thưởng bàn kế sách chống Pháp. Vừa gặp nhau, Trần Cao Vân đã bị sốt rét nằm liệt giường. Võ Trứ thì quá nóng lòng trước thế cuộc, nên tháng 7/1898 ông đã từ giã Trần Cao Vân vào Phú Yên tổ chức lực lượng kháng chiến, tập hợp đông đảo quần chúng, phật tử yêu nước về dưới cờ “Minh trai chủ tể”.

Rằm tháng 7 âm lịch, khách thập phương về chùa Đá Bạc rất đông dự lễ Vu Lan. Lợi dụng cơ hội này, lãnh tụ Võ Trứ triệu tập một cuộc họp bí mật tại chùa. Trần Cao Vân nhận được tin, thấy Võ Trứ quá nóng vội trong hành động, nên dù bệnh tình trầm trọng ông vẫn lên võng cho người khiêng rời Bình Định vào Phú Yên dự họp khẩn cấp. Ông tranh thủ góp một số ý kiến nhằm hạn chế bớt thiệt hại khi nổ ra khởi nghĩa.

Đúng như dự liệu của quân sư Trần Cao Vân, cuộc khởi nghĩa non của lãnh tụ Võ Trứ dưới lá cờ “Minh trai chủ tể” đã thất bại nặng. Chùa Đá Trắng chứng kiến thêm một sự kiện đẫm máu bi tráng vì nền độc lập. Quân khởi nghĩa thất bại vì chưa có thời gian chuẩn bị, trang bị quá thô sơ. Quân Pháp gọi cuộc khởi nghĩa này là “giặc thầy chùa” , “giặc rựa”!

Võ Trứ và Trần Cao Vân trốn thoát, lánh lên động Bà Thiên ẩn náu. Dân làng quanh vùng bị đàn áp, khảo tra dã man. Để tránh gây thiệt hại lớn cho nhân dân, Võ Trứ từ biệt Trần Cao Vân để ra nộp mạng cho giặc, bị xử trảm, bêu đầu lên cọc tre để thị uy dân chúng. Còn Trần Cao Vân tiếp tục lên đường tìm kế sách tiếp tục chống Pháp.

Chùa Đá Trắng có lập riêng ngôi miếu nhỏ để thờ hai chí sĩ yêu nước Võ Trứ và Trần Cao Vân cùng các nghĩa quân đã bỏ mình vì nước. Những đêm khuya thanh vắng, các vị sư trụ trì và nhân dân địa phương hay thấy một vị tướng cưỡi ngựa trắng phi qua chùa. Họ bảo rằng hồn thiêng nghĩa sĩ vẫn còn quanh quẩn trên núi Đá Trắng để phù hộ cho “quốc thái dân an”!